Nhà thơ Tú Mỡ được đông đảo bạn đọc yêu thích và săn đón. Với những trang thơ đầy ấn tượng, ông được đánh giá là một ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn là một dịch giả chuyên dịch những thi phẩm thơ nổi tiếng trên thế giới. Nếu bạn quan tâm thì hãy đón xem cùng chúng tôi nhé!

Đứa trẻ và thầy đồ

L’enfant et le maitre d’ecole
Dans ce récit je prétends faire voir
D’un certain sot la remontrance vaine.
Un jeune enfant dans l’eau se laissa choir,
En badinant sur les bords de la Seine.
Le Ciel permit qu’un saule se trouva,
Dont le branchage, après Dieu, le sauva.
S’étant pris, dis-je, aux branches de ce saule,
Par cet endroit passe un Maître d’école.
L’Enfant lui crie: “Au secours! je péris.”
Le Magister, se tournant à ses cris,
D’un ton fort grave à contre-temps s’avise
De le tancer: “Ah! le petit babouin!
Voyez, dit-il, où l’a mis sa sottise!
Et puis, prenez de tels fripons le soin.
Que les parents sont malheureux qu’il faille
Toujours veiller à semblable canaille!
Qu’ils ont de maux ! et que je plains leur sort!”
Ayant tout dit, il mit l’enfant à bord.
Je blâme ici plus de gens qu’on ne pense.
Tout babillard, tout censeur, tout pédant,
Se peut connaître au discours que j’avance:
Chacun des trois fait un peuple fort grand;
Le Créateur en a béni l’engeance.
En toute affaire ils ne font que songer
Aux moyens d’exercer leur langue.
Hé! mon ami, tire-moi de danger:
Tu feras après ta harangue.

Dịch

Trong chuyện này tôi xin tả đúng
Một thằng ngu lên giọng trái mùa
Một hôm có đưa trẻ thơ
Nhởn nhơ dạo bước trên bờ sông Xen
Nhỡ trượt cẳng ngã liền xuống nước
Phúc làm sao vớ được cành dương
Trước là ơn Chúa rộng thương
Sau nhờ cành liễu khỏi cơn tai nàn
Một thầy đồ lang thang tới nẻo
Đứa trẻ thơ kêu réo hết hơi
“Cứu tôi! Chết mất thầy ơi!”
Thầy đồ đạo mạo quay người đứng coi
Lên ngay giọng trái thời nghiêm nghị
Mắng trẻ thơ: “Đồ khỉ nhãi con!
Trông kìa, nó mất trí khôn!
Công đâu nuôi nấng thằng ôn vật này!
Chẳng qua bố mẹ mày vô phúc
Đẻ con hư chăm sóc toi công
Thương thay số kiếp long đong
Làm cha mẹ chẳng đau lòng lắm ru!”
Diễn thuyết xong, thầy đồ khệ nệ
Bước ra lôi đứa trẻ lên bờ
Chuyện này còn mắng vào lắm kẻ
Bọn ba hoa, hoạnh họe, sính tài
Lời tôi đã rõ nói ai
Kể ba hạng ấy ngợm người khá đông
Tạo hóa cưng chi dòng giống đó?
Thấy việc là chúng nó lôi thôi
Tìm đường múa mép khua môi
Chao ôi! ông bạn, cứu tôi đã nào!
Xong rồi sẽ nói tào lao…

Hươu soi mình dưới nước

Dans le cristal d’une fontaine
Un Cerf se mirant autrefois
Louait la beauté de son bois,
Et ne pouvait qu’avecque peine
Souffrir ses jambes de fuseaux,
Dont il voyait l’objet se perdre dans les eaux.
Quelle proportion de mes pieds à ma tête !
Disait-il en voyant leur ombre avec douleur :
Des taillis les plus hauts mon front atteint le faîte ;
Mes pieds ne me font point d’honneur.
Tout en parlant de la sorte,
Un Limier le fait partir;
Il tâche à se garantir;
Dans les forêts il s’emporte.
Son bois, dommageable ornement,
L’arrêtant à chaque moment,
Nuit à l’office que lui rendent
Ses pieds, de qui ses jours dépendent.
Il se dédit alors, et maudit les présents
Que le Ciel lui fait tous les ans.
Nous faisons cas du beau, nous méprisons l’utile;
Et le beau souvent nous détruit.
Ce Cerf blâme ses pieds qui le rendent agile;
Il estime un bois qui lui nuit.

Dịch

Trong dòng suối tựa thuỷ tinh
Hôm xưa Hươu đứng soi mình nước trong
Khen chạc đẹp; hài lòng, thích lắm
Thấy gióng chân cà khẳng lại buồn
Chân thon lấp ló dưới nguồn
Làm Hươu khó chịu, đòi cơn Hươu sầu
Than rằng: “Ngắm từ đầu đến cẳng
Khác nhau xa, coi chẳng xứng nào
Đầu thì chấm ngọn cây cao
Cẳng thì lếu đếu, bảnh bao nỗi gì!”
Hươu đang nói vân vi như thế
Thấy chó săn, ù té chạy ngay
Cố sao thoát khỏi nguy đây
Cắm đầu phóng vút như bay vào rừng
Tai hại tệ, cặp sừng trang trí
Làm cho Hươu cứ bị vướng hoài
Cái chân tác dụng cứu đời
Cái sừng lại cản, đang thời nguy cơ
Hươu tỉnh ngộ bây giờ đổi giọng
Oán món quà trời tặng hàng năm
Đẹp thường ta trọng, ích ta khinh
Cái đẹp thường khi hại đến mình
Chân giúp Hươu nhanh, Hươu lại oán
Đi mê bộ chạc phản Hươu lành

Khỉ và mèo

Bertrand avec Raton, l’un Singe et l’autre Chat,
Commensaux d’un logis, avaient un commun Maître.
D’animaux malfaisants c’était un très bon plat;
Ils n’y craignaient tous deux aucun, quel qu’il pût être.
Trouvait-on quelque chose au logis de gâté,
L’on ne s’en prenait point aux gens du voisinage.
Bertrand dérobait tout; Raton de son côté
Etait moins attentif aux souris qu’au fromage.
Un jour au coin du feu nos deux maîtres fripons
Regardaient rôtir des marrons.
Les escroquer était une très bonne affaire:
Nos galands y voyaient double profit à faire,
Leur bien premièrement, et puis le mal d’autrui.
Bertrand dit à Raton: Frère, il faut aujourd’hui
Que tu fasses un coup de maître.
Tire-moi ces marrons. Si Dieu m’avait fait naître
Propre à tirer marrons du feu,
Certes marrons verraient beau jeu.
Aussitôt fait que dit: Raton avec sa patte,
D’une manière délicate,
Ecarte un peu la cendre, et retire les doigts,
Puis les reporte à plusieurs fois;
Tire un marron, puis deux, et puis trois en escroque.
Et cependant Bertrand les croque.
Une servante vient: adieu mes gens. Raton
N’était pas content, ce dit-on.
Aussi ne le sont pas la plupart de ces Princes
Qui, flattés d’un pareil emploi,
Vont s’échauder en des Provinces
Pour le profit de quelque Roi.

Dịch

Khẹc với Meo, một mèo một khỉ
Chủ cùng chung hú hí một nhà
Cũng phường quỉ quái tinh ma
Lưu manh một giuộc dễ mà chịu ai
Trong nhà hễ thấy tai thấy hại
Chính quân này nào phải ai quanh
Khẹc thì ăn cắp như ranh
Mèo không rình chuột, chỉ rình sữa bơ
Một hôm nọ hai xừ đại bợm
Hạt dẻ tây nhòm nướng trong lò
Xoáy ăn nhằm món bở to
Một công đôi việc giở trò tinh ranh
Trước là được thỏa tình ích kỷ
Sau nữa là toại chí hại nhân
Khẹc bảo Meo, bạn chí thân:
“Hôm nay huynh trổ ngón thần đệ coi
Hạt dẻ đó hãy cời chơi thử
Nếu trời sinh đệ đủ tài ba
Lửa hồng kều hạt dẻ ra
Phóng tay phải biết, mấy mà chẳng hay!”
Nghe dứt lời, làm ngay tức khắc
Mèo dùng chân, kỹ thuật tinh vi
Cời cời, gạt gạt gio đi
Thò vào thụt lại kể chi mấy lần
Kều một hạt, dần dần hai hạt
Ba hạt… tay giảo hoạt thạo nghề
Trong khi thằng Khẹc chầu rìa
Hạt này hạt nữa tì tì cắn ăn
Chị tớ gái bất thần xịch tới
Thôi thế là bán sới cả hai
Mèo ta bị xỏ chẳng hài
Người ta bảo thế: trò đời khác đâu!
Lắm vương tước chư hầu cũng rứa
Phận đầu sai hớn hở công lao
Nước sôi lửa bỏng lăn vào

Lão nông và các con

Travaillez, prenez de la peine :
C’est le fonds qui manque le moins.
Un riche laboureur, sentant sa mort prochaine,
Fit venir ses enfants, leur parla sans témoins.
” Gardez-vous, leur dit-il, de vendre l’héritage
Que nous ont laissé nos parents :
Un trésor est caché dedans.
Je ne sais pas l’endroit ; mais un peu de courage
Vous le fera trouver : vous en viendrez à bout.
Remuez votre champ dès qu’on aura fait l’août :
Creusez, fouillez, bêchez ; ne laissez nulle place
Où la main ne passe et repasse. “
Le père mort, les fils vous retournent le champ,
Deçà, delà, partout : si bien qu’au bout de l’an
Il en rapporta davantage.
D’argent, point de caché. Mais le père fut sage
De leur montrer, avant sa mort,
Que le travail est un trésor.

Dịch

Hãy lao động cần cù gắng sức,
Ấy chân lưng sung túc nhất đời.
Phú nông gần đất xa trời
Họp riêng con lại ngỏ lời thiết tha
Rằng: “Ruộng đất ông cha để lại
Các con đừng khờ dại bán đi
Kho vàng chôn dưới đất kia
Cha không biết chỗ. Kiên trì gắng công
Tìm khắc thấy, cuối cùng sẽ thắng
Xốc ruộng lên tháng tám sau mùa
Tay cày, tay cuốc, tay bừa,
Xới qua xới lại chẳng chừa chỗ không”
Bố chết. Các con cùng gắng gổ
Lật tung đồng đây đó khắp nơi.
Kỹ càng công việc xong xuôi,
Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu.
Vàng với bạc giấu mô chẳng thấy,
Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan:
Trước khi từ giã trần gian,
Lấy câu “lao động là vàng” dạy con.

Lũ sói và bọn chiên

Après mille ans et plus de guerre déclarée,
Les Loups firent la paix avecque les Brebis.
C’était apparemment le bien des deux partis;
Car si les Loups mangeaient mainte bête égarée,
Les Bergers de leur peau se faisaient maints habits.
Jamais de liberté, ni pour les pâturages,
Ni d’autre part pour les carnages:
Ils ne pouvaient jouir qu’en tremblant de leurs biens.
La paix se conclut donc : on donne des otages;
Les Loups, leurs Louveteaux; et les Brebis, leurs Chiens.
L’échange en étant fait aux formes ordinaires
Et réglé par des Commissaires,
Au bout de quelque temps que Messieurs les Louvats
Se virent Loups parfaits et friands de tuerie,
Ils vous prennent le temps que dans la Bergerie
Messieurs les Bergers n’étaient pas,
Etranglent la moitié des Agneaux les plus gras,
Les emportent aux dents, dans les bois se retirent.
Ils avaient averti leurs gens secrètement.
Les Chiens, qui, sur leur foi, reposaient sûrement,
Furent étranglés en dormant:
Cela fut sitôt fait qu’à peine ils le sentirent.
Tout fut mis en morceaux ; un seul n’en échappa.
Nous pouvons conclure de là
Qu’il faut faire aux méchants guerre continuelle.
La paix est fort bonne de soi,
J’en conviens; mais de quoi sert-elle
Avec des ennemis sans foi?

Dịch

Hơn nghìn năm dằng dai ác chiến
Sói nghị hòa thân thiện cùng Chiên
Hẳn là phúc cả đôi bên
Bởi vì nếu Sói thịt Chiên lạc bầy
Thì Mục tử cũng tay tàn bạo
Lột da lang may áo đã nhiều
Đôi bên cùng bị gieo neo
Tự do mà thế là điều hư không
Chẳng tự do trên đồng gặm cỏ
Chẳng tự do kiếm bở thịt tươi
Ngán thay,vô tận kho trời
Của mình mình hưởng, vì ai cứ gờm!
Nay hội nghị hiệp thương đình chiến
Đem con tin gửi đến làm bằng
Bên Chiên mấy chú chó săn
Bên Sói gửi lại mấy thằng Sói con
Việc trao đổi làm tròn thủ tục
Có ủy viên coi sóc thi hành
Ít lâu, các cậu Sói ranh
Trở nên khát máu khi thành Sói ông
Rình Mục tử lúc không có mặt
Nhằm Chiên con nào thật béo quay
Cắn hầu sạt tới nửa bầy
Ngoạm răng tha biến, rút ngay vào rừng
Lại bí mật báo cùng đồng loại
Chó tin vào lời Sói, ngờ đâu
Đang ngon giấc, bị cắn hầu
Nhanh như chớp, êm như ru, thấy gì
Đều bị Sói tức thì xé xác
Chẳng một con nào thoát được thân
Một kết luận đây cần được rút
Diệt hung tàn chớ phút nào ngơi
Hòa bình tốt thật – đành rồi!
Nhưng hòa sao được với nòi bất lương?

Ngựa báo thù hươu

De tout temps les Chevaux ne sont nés pour les hommes.
Lorsque le genre humain de gland se contentait,
Ane, Cheval, et Mule, aux forêts habitait;
Et l’on ne voyait point, comme au siècle où nous sommes,
Tant de selles et tant de bâts,
Tant de harnois pour les combats,
Tant de chaises, tant de carrosses,
Comme aussi ne voyait-on pas
Tant de festins et tant de noces.
Or un Cheval eut alors différent
Avec un Cerf plein de vitesse,
Et ne pouvant l’attraper en courant,
Il eut recours à l’Homme, implora son adresse.
L’Homme lui mit un frein, lui sauta sur le dos,
Ne lui donna point de repos
Que le Cerf ne fût pris, et n’y laissât la vie;
Et cela fait, le Cheval remercie
L’Homme son bienfaiteur, disant: Je suis à vous;
Adieu. Je m’en retourne en mon séjour sauvage.
Non pas cela, dit l’Homme; il fait meilleur chez nous:
Je vois trop quel est votre usage.
Demeurez donc; vous serez bien traité.
Et jusqu’au ventre en la litière.
Hélas! que sert la bonne chère
Quand on n’a pas la liberté
Le Cheval s’aperçut qu’il avait fait folie;
Mais il n’était plus temps : déjà son écurie
Etait prête et toute bâtie.
Il y mourut en traînant son lien.
Sage s’il eût remis une légère offense.
Quel que soit le plaisir que cause la vengeance,
C’est l’acheter trop cher, que l’acheter d’un bien
Sans qui les autres ne sont rien.

Dịch

Ngựa há phải sinh cho người vỗ
Thuở người còn ở lỗ ăn lông
Ngựa, lừa, la, vẫn chạy rông
Tự do sinh sống ở trong cõi rừng
Khác thời ta, chưa từng ai thấy
Bao bộ đồ thắng đái yên cương
Đồ trang bị ngựa chiến trường
Nghênh ngang xa giá, chật đường song loan
Cũng ít thấy liên hoan khánh tiết
Chẳng liên miên yến tiệc xa hoa
Một con Tuấn mã ngày xưa
Với Hươu có sự bất hòa chấp tranh
Chỉ vì Hươu phóng nhanh như gió
Ngựa chạy không kịp nó, ức tình
Ghen hơi tức khí đua ganh
Phải van người giỏi giúp mình ra tay
Người thuận giúp mắc ngay hàm thiếc
Nhảy lên lưng, cứ riết ra roi
Không còn cho ngựa nghỉ ngơi
Kỳ cho Hươu bị bắt, rồi bỏ thây
Xong việc, Ngựa ơn thầy đa tạ
Nói: “Một lòng một dạ từ đây
Cáo từ, xin hãy chia tay
Bây giờ tôi lại xin quay về ngàn”
Người rằng: “Hãy khoan khoan, không được!
Ở nhà ta sung túc đâu bằng
Dùng mi ta rõ khả năng
Ở đây mi được chăm bằng thỏa thuê
Máng cỏ nõn đầy kề ngang miệng
Ổ rơm êm phủ đến tận hông”
Than ôi! Nô lệ vào tròng
Ấm no mà chẳng thong dong sướng gì?
Ngựa mới biết hành vi quá dại
Muộn quá rồi, đã cái chuồng đây
Chết đi còn kéo lê dây
Nếu khôn, hận nhỏ trước đây sá gì!
Báo được thù tuy dạ hả hê
Trả bằng giá đắt, dại nên chê
Tự do đã mất khôn mua chuộc
Của khác thôi còn quí giá chi!

Quạ và cáo 

Maître Corbeau, sur un arbre perché,
Tenait en son bec un fromage.
Maître Renard, par l’odeur alléché,
Lui tint à peu près ce langage :
“Hé! bonjour, Monsieur du Corbeau,
Que vous êtes joli! que vous me semblez beau!
Sans mentir, si votre ramage
Se rapporte à votre plumage,
Vous êtes le phénix des hôtes de ces bois.”
A ces mots le Corbeau ne se sent pas de joie;
Et pour montrer sa belle voix,
Il ouvre un large bec, laisse tomber sa proie.
Le Renard s’en saisit, et dit : “Mon bon Monsieur,
Apprenez que tout flatteur
Vit aux dépens de celui qui l’écoute :
Cette leçon vaut bien un fromage, sans doute.”
Le Corbeau, honteux et confus,
Jura, mais un peu tard, qu’on ne l’y prendrait plus.

Dịch

Thầy Quạ đậu trên cây
Mỏ ngậm miếng pho-mát
Thầy Cáo thấy thơm ngát
Bèn lại tán thế này:
“Kính chào tôn ông Quạ
Khôi ngô và phong nhã
Tôi trông đẹp nhất ngài!
Lại dám đâu nói sai
Nếu giọng ngài bẻ bai
Như lông ngài hào nhoáng
Thì ngài quả xứng đáng
Là chúa Phượng lâm sơn”
Quạ nghe nói sướng rơn
Muốn tỏ mình tốt giọng
Mở toang cái mỏ rộng
Để rơi quách miếng mồi
Cáo cuỗm phắt, ngỏ lời:
“Thưa tôn ông quý hoá
Xin điều này ghi dạ
Phàm kẻ nịnh hót xằng
Chỉ sống bám vào thằng
Cả nghe lời tán tỉnh
Bài học này tôi tính
Đổi pho-mát còn hời”
Quạ xấu hổ điếng người
Quyết thề – nhưng muộn quá
Từ nay không hớ nữa

Ruồi và kiến

La Mouche et la Fourmi contestaient de leur prix.
“O Jupiter! dit la première,
Faut-il que l’amour propre aveugle les esprits
D’une si terrible manière,
Qu’un vil et rampant animal
A la fille de l’air ose se dire égal!
Je hante les Palais, je m’assieds à ta table:
Si l’on t’immole un boeuf, j’en goûte devant toi;
Pendant que celle-ci, chétive et misérable,
Vit trois jours d’un fétu qu’elle a traîné chez soi.
Mais, ma mignonne, dites-moi,
Vous campez-vous jamais sur la tête d’un Roi
D’un Empereur, ou d’une Belle?
Je le fais; et je baise un beau sein quand je veux;
Je me joue entre des cheveux;
Je rehausse d’un teint la blancheur naturelle;
Et la dernière main que met à sa beauté
Une femme allant en conquête,
C’est un ajustement des Mouches emprunté.
Puis allez-moi rompre la tête
De vos greniers. – Avez-vous dit?
Lui répliqua la ménagère.
Vous hantez les Palais; mais on vous y maudit.
Et quant à goûter la première
De ce qu’on sert devant les Dieux,
Croyez-vous qu’il en vaille mieux?
Si vous entrez partout, aussi font les profanes.
Sur la tête des Rois et sur celle des Anes
Vous allez vous planter; je n’en disconviens pas;
Et je sais que d’un prompt trépas
Cette importunité bien souvent est punie.
Certain ajustement, dites-vous, rend jolie.
J’en conviens: il est noir ainsi que vous et moi.
Je veux qu’il ait nom Mouche: est-ce un sujet pourquoi
Vous fassiez sonner vos mérites?
Nomme-t-on pas aussi Mouches les parasites?
Cessez donc de tenir un langage si vain:
N’ayez plus ces hautes pensées.
Les Mouches de cour sont chassées;
Les Mouchards sont pendus; et vous mourrez de faim,
De froid, de langueur, de misère,
Quand Phébus régnera sur un autre hémisphère.
Alors je jouirai du fruit de mes travaux.
Je n’irai, par monts ni par vaux,
M’exposer au vent, à la pluie;
Je vivrai sans mélancolie.
Le soin que j’aurai pris de soin m’exemptera.
Je vous enseignerai par là
Ce que c’est qu’une fausse ou véritable gloire.
Adieu: je perds le temps: laissez-moi travailler;
Ni mon grenier, ni mon armoire
Ne se remplit à babiller.”

Dịch

Ruồi và Kiến đôi bên cãi vã
Tranh luận nhau về giá trị mình
Ruồi rằng: – Ôi chúa Thiên đình!
Lòng tự ái khiến tâm linh quáng mù
Gớm đến nỗi Kiến bò mạt loại
Dám sánh mình với gái không trung!
Ngồi bàn chúa, ở hoàng cung
Ai dâng bò tế, ta dùng trước tiên
Còn kẻ nọ ươn hèn yếu đuối
Tha cọng rơm nhấm tới ba ngày
Ả kia, ta hỏi thực này
Có bao giờ cái thứ mày được bâu
Đầu hoàng đế hoặc đầu vua chúa
Đầu mỹ nhân đẹp tựa tiên nga?
Ta hôn cái ngực nõn nà
Khi ta thích ý là ta cứ mần
Ta đùa giỡn, ta vờn làn tóc
Ta điểm tôn mặt ngọc da ngà
Mỹ miều thường thấy có bà
Khi vào làm đỏm, khi ra câu tình
Tô điểm xong mặt mình son phấn
Thêm chấm đen, chính mượn của Ruồi
Bọn mày lại sắp rậm lời
Chuyện về xó vựa khua môi nhức đầu
Mụ Kiến đốt: – Dứt câu xong chửa?
Mi khoe khoang sống ở cung đường
Nhưng người ta chửi là thường
Còn như nếm trước cao lương cúng thần
Có gì đáng vinh thân kia chứ?
Xông khắp nơi như lũ tục phàm
Bạ đâu đậu đấy bay quàng
Bâu đầu vua lại bâu sang đầu lừa
Ta chẳng cãi, biết thừa sự thật
Tội quấy người, người đập chết toi
Còn như chuyện cái nốt ruồi
Làm cho sắc đẹp con người nổi lên
Đồng ý cái chấm đen tô điểm
Nốt ruồi đen, sắc Kiến cũng đen
Nốt ruồi chỉ có cái tên
Phải chẳng chuyện đáng gióng lên hợm xằng?
“Ruồi” người gọi những thằng ăn hại
Thôi ngay đi giọng lưỡi ba hoa
Cũng đừng tưởng tượng cao xa
Nịnh thần lũ nhặng bị sa thải rồi
Bọn gián điệp bị lôi treo cổ
Lũ chúng bay đói khổ võ vàng
Cuối cùng rồi cũng đến bương
Vào mùa thần nắng chuyển phương trị vì
Bấy giờ ta, sau kỳ lao động
Của kiếm ra ngồi hưởng an nhàn
Chẳng cần xuống lũng lên ngàn
Chẳng cần gió kép mưa đơn dãi dầu
Sống yên vui, chẳng sầu chẳng tủi
Trước cần cù sau khỏi lao đao
Dạy cho mi rõ thấp cao
Thế nào danh thực, thế nào danh hư
Thôi chẳng mất thì giờ tán phét
Để ta còn lo việc làm ăn
Ngồi lê chuyện gẫu lăng nhăng
Rương kia, vựa nọ đầy chăng? – chẳng đầy!

Rừng và tiều phu

Un Bûcheron venait de rompre ou d’égarer
Le bois dont il avait emmanché sa cognée.
Cette perte ne put sitôt se réparer
Que la Forêt n’en fût quelque temps épargnée.
L’Homme enfin la prie humblement
De lui laisser tout doucement
Emporter une unique branche,
Afin de faire un autre manche.
Il irait employer ailleurs son gagne-pain;
Il laisserait debout maint chêne et maint sapin
Dont chacun respectait la vieillesse et les charmes.
L’innocente Forêt lui fournit d’autres armes.
Elle en eut du regret. Il emmanche son fer.
Le misérable ne s’en sert
Qu’à dépouiller sa bienfaitrice
De ses principaux ornements.
Elle gémit à tous moments:
Son propre don fait son supplice.
Voilà le train du Monde et de ses Sectateurs:
On s’y sert du bienfait contre les bienfaiteurs.
Je suis las d’en parler; mais que de doux ombrages
Soient exposés à ces outrages,
Qui ne se plaindrait là-dessus?
Hélas! j’ai beau crier et me rendre incommode:
L’ingratitude et les abus
N’en seront pas moins à la mode.

Dịch

Tiều phu gãy mất cán rìu
Chữa xong cũng phải ít nhiều thời gian
Tạm thời Rừng đỡ bị choang
Tiều phu sau phải cố van vỉ lời:
“Rừng cho anh được thảnh thơi
Chỉ xin đẵn một cành thôi không nhiều
Cho anh thay cái cán rìu
Sẽ đi nơi khác liệu chiều sinh nhai
Để yên này bách này sồi
Mà người trân trọng vẻ tươi cỗi già”
Rừng ngay thật hóa ngây thơ
Nối giáo cho giặc, bây giờ hối sao!
Rìu kia nó lắp cán vào
Cái thằng bất nghĩa bụng nào tri ân
Dùng rìu tàn hại ân nhân
Bao nhiêu xanh tốt nay gần trụi trơ
Rừng đau không ngớt kêu la
Ngỡ mình làm phúc hóa ra tội mình
Chém cha thế thái nhân tình!
Làm ơn nên vạ, bất bình ai gây
Nói nhiều cũng mệt lắm thay
Cây cao bóng cả bị tay phũ phàng
Ai mà chẳng trách chẳng than?
Than ôi! kêu lắm chỉ mang lấy phiền
Quên ân nghĩa, phụ lòng hiền
Vẫn là thói tục bạc đen trên đời

Sói và cừu non

La raison du plus fort est toujours la meilleure :
Nous l’allons montrer tout à l’heure.
Un Agneau se désaltérait
Dans le courant d’une onde pure.
Un Loup survient à jeun qui cherchait aventure,
Et que la faim en ces lieux attirait.
Qui te rend si hardi de troubler mon breuvage ?
Dit cet animal plein de rage :
Tu seras châtié de ta témérité.
Sire, répond l’Agneau, que votre Majesté
Ne se mette pas en colère ;
Mais plutôt qu’elle considère
Que je me vas désaltérant
Dans le courant,
Plus de vingt pas au-dessous d’Elle,
Et que par conséquent, en aucune façon,
Je ne puis troubler sa boisson.
Tu la troubles, reprit cette bête cruelle,
Et je sais que de moi tu médis l’an passé.
Comment l’aurais-je fait si je n’étais pas né ?
Reprit l’Agneau, je tette encor ma mère.
Si ce n’est toi, c’est donc ton frère.
Je n’en ai point. – C’est donc quelqu’un des tiens :
Car vous ne m’épargnez guère,
Vous, vos bergers, et vos chiens.
On me l’a dit : il faut que je me venge.
Là-dessus, au fond des forêts
Le Loup l’emporte, et puis le mange,
Sans autre forme de procès

Dịch

Kẻ mạnh, cái lẽ vốn già
Chuyện này tức khắc giải ra rõ ràng
Dòng suối trong, Chiên đang giải khát
Dạ trống không, Sói chợt đến nơi
Đói, đi lảng vảng kiếm mồi
Thấy Chiên, động dại bời bời thét vang:
Sao mày dám cả gan vục mõm
Làm đục ngầu nước uống của ta?
Tội mày phải trị không tha!
Chiên con sửng sốt thưa qua mấy lời:
Xin bệ hạ hãy nguôi cơn giận
Xét lại cho tường tận kẻo mà…
Nơi tôi uống nước quả là
Hơn hai chục bước cách xa nơi này
Chẳng lẽ kẻ hèn này có thể
Khuấy nước ngài uống phía nguồn trên
Con quái ác lại gầm lên:
Chính mày khuấy nước! Ai quên đâu là
Mày có nói xấu ta năm ngoái…
Nói xấu ngài? Tôi nói xấu ai?
Khi tôi còn chửa ra đời?
Hiện tôi đang bú mẹ tôi rành rành
Không phải mày thì anh mày đó
Quả thật tôi chẳng có anh em
Thế thì một mống nhà chiên
Quân bay có đứa nào kiềng sói đâu!
Chiên, chó, người, cùng nhau một thói
Họ mách ta, ta phải báo cừu!
Dứt lời, tha tận rừng sâu
Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cầu đôi co

Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn những trang thơ hay và hấp dẫn nhất của nhà thơ Tú Mỡ. Qua đó ta cảm nhận được phong cách thơ cùng giá trị cao cả của những trang thơ. Mời các bạn đón xem phần 4 vào một ngày gần nhất!

Tagged: