Tú Mỡ thực sự nổi tiếng từ năm 1932, khi giữ mục dòng nước ngược cho báo Phong Hoá. Cái xã hội thuộc địa nửa phong kiến thời Tú Mỡ đầy rẫy những lố lăng kệch cỡm, đạo đức giả. Ông cảm nhận được tất cả và đã giữ lại trong thơ mình như một tang chứng sống của thời cuộc. Những trang thơ của ông với ngòi bút hiện thực vừa chúc vừa chửi vô cùng ấn tượng.

Là văn sĩ chẳng lẽ không khai bút
Chẳng hay ho cũng nặn nọt một bài
Ngót hai năm xổng bút mỉa mai đời
Thì Tết đến cũng phải có bài thơ… rắc rối
Rót thêm mực, thay ngòi bút mới
Thảo mấy dòng cảm khái sau đây
Thơ rằng:
Tú chi tú ấy nực cười thay!
Chẳng phải Nho mà chẳng phải Tây!
Rửng mỡ trêu đời, văn mách qué
Thế mà cũng tiếng… bấy lâu nay!
Ngồi ngâm nga, đùi rung chuyển nghế mây
Rồi chép lại, rắp thả ngay “Giòng nước ngược”
Bắt chước cụ Tú Xương thủa trước
Hỏi mợ Tú rằng: “Nghe được hay chăng?”
Bĩu môi, mẹ đĩ phê rằng
“Nôm na mắch qué, lố lăng, ngược đời!”
Đầu năm đã bị rông rồi
Chắc là văn viết ngược đời quanh năm!

Khuyên ai kén vợ

I
Lấy vợ khuyên ai kén vợ hiền
Kén người đức hạnh, bậc chân chuyên
Tốt duyên gặp được người như nguyện
Giá nọ nhà vàng đúc cũng nên
II
Lấy vợ khuyên ai kén vợ soàng
Cần chi giầu có với quan sang
Quý hồ nội trợ tề gia giỏi
Cái cảnh gia đình mới vẻ vang
III
Lấy vợ khuyên ai cốt chữ tình
Xin đừng vụ lợi, chớ ham danh
Mấy người tiểu kỷ vì danh lợi
Khó trọn cùng nhau nghĩa tử sinh
IV
Lấy vợ không nên kén vợ giầu
E rằng ỷ của lại khinh nhau
Hổ thay! cái tiếng nhờ lưng vợ!
Tiếng ấy anh hùng há chịu đâu!
V
Lấy vợ không nên lấy ả đầu
Hoa tàn, nhị rữa, tiết còn đâu
Chỉ quen nghề nghiệp nhà son phấn
Chẳng trách phương ngôn đã có câu…!
VI
Lấy vợ không nên lấy vợ nhiều
Một bà thôi cũng đủ thương yêu
Ai về nhắn nhủ phường tham thịt
Cả lẽ làm chi, tổ ỷ eo…!

Kiệu bay

Đám rước làng ta đã tới đền
Vía bà động cỡn, tốc bay lên
Các cô chân kiệu siêu lơ chạy
Mấy mụ đồng quan lẽo đẽo rên
Pháo đốt, nhang bay mù đảo địa
Con công, cái bán lễ huyên thiên
Thánh bà mới biết linh thiêng thật
Gặp cái ô tô, kiệu đứng liền!

Kinh tế khủng hoảng phú

Ghê thay nạn kinh tế!
Ghê thay nạn kinh tế!
Nguyên bởi từ đâu?
Hại sao đến thế!
Trong vạn quốc, từ nhỏ đến to
Khắp muôn dân, cả lớn lẫn bé
Cũng băn khoăn vì tài chính lung lay
Đều nhăn nhó bởi bán buôn tắc bế
Làm ăn lủng củng, dưới con dân khôn nỗi xoay xu
Xuất nhập hụt hao, trên nhà nước khó đường thu thuế
Hạng quan lại đang ăn tiêu rộng rãi, cũng cắn răng vâng lệnh sụt lương
Bọn sinh viên vừa thi đỗ vênh vang, đành bấm bụng đóng vai vô nghệ
Sĩ đã buồn tênh
Nông càng quẫn tệ
Mừng được năm hoà cốc phong đăng
Rủi gặp lúc thông thương đình trệ
Tiền hòm rỗng tuếch, lấy chi mà nộp thuế, nộp sưu
Thóc vựa chứa chan, lo để đấy mọc mầm, mọc rễ
Bởi nông phu tiền thiếu gạo thừa
Nên thương mại khách thưa hàng ế
Buôn thua bán lỗ, hiệu nhỏ to vỡ nợ đùng đùng
Mượn quịt vay lường, kẻ hơn thiệt kiện nhau chí choé
Nhà kỹ nghệ hàng không trôi chẩy, giảm bớt nhân công
Bọn thợ thuyền việc ít nằm khàn, khó tìm sinh kế
Việc tuy không sẵn, miệng vẫn phải ăn
Gạo chẳng ai cung, hàm không nhẽ trễ
Túng phải tính liều
Đói đâm ê trệ
Nẩy nòi trộm cướp, khó giữ cho yên
Vỡ tổ ăn mày, cứu sao cho suể
Kinh tế khủng, ái tình cũng khủng, lo ế chồng phụ nữ chổng mông gào
Sự nghiệp suông, loan phụng đành suông, hoãn lấy vợ nam nhi quay mặt… kệ!
Cả đến sóm hoa đưa liễu đón, vừa độ nào anh yến sôn sao
Cũng trải phen phách mốc đàn meo, nay đã thấy làng chơi vắng vẻ
Nghĩ cũng lo thay
Nguy khôn xiết kể
Mới trong ít độ, tứ dân đà tấn tới rật lùi
Cứ thế này lâu, nhân loại sẽ văn minh tắc tị
Chấn hưng kinh tế, hỏi ai nào đại thánh ra tay?
Cứu vãn tiền đồ, còn đợi có phúc tinh giáng thế

Mề đay

Ông phán cành cạch mươi năm nay
Mà được bốn, năm chiếc mề đay
Những khi tết nhất hoặc yến tiệc
Ông đeo trước ngực hai dẫy đầy
Cái bạc, cái vàng, đủ các hạng
Này cái “Cao-mên”, cái “Vạn Tượng”
Này cái “Danh dự”, cái “Rồng Nam”
Thiên hạ trông vào thực là choáng
Ông hỏi tôi rằng: “Cớ làm sao
Tôi cũng đi làm, chức cũng cao
Chẳng xin lấy độ răm mười chiếc
Để dương danh giá với đồng bào?”
Thưa ông: Tôi đây cũng vẫn biết
Huy chương nhà nước là quý thiệt!
Để thưởng công lao kẻ tận tâm
Khuyến khích lòng người cho được việc
Tôi tự xét tôi đứa bất tài
Công danh sự nghiệp chẳng bằng ai
Chỉ biết đi, về ngày bốn buổi
Cuối tháng lĩnh lương mang về nhai
Nếu ông không phải người lỗi lạc
Nếu cũng như tôi, như kẻ khác
Mà cũng được một mớ huy chương
Tôi xin chịu ông người quái quắc
Dám xin hỏi ông: “Sự trạng gì?
Hoặc là cứu khổn với phò nguy
Hoặc là hi sinh vì nghĩa vụ
Hoặc là… hoặc là… cái chi chi?”

Mỡ mà chẳng… mỡ

Tặng bạn Nam Hương
(Thơ thất ngôn thập nhị cú)
Tú Mỡ, nghe tên rõ chướng phè
Làm thiên hạ tưởng béo xù ghê
Chẳng thua cụ Ỷ lườn nung núc
Cũng hệt ông Vâm bụng lặc lè
*
Mà hoá người thon như cái nhái
Té ra mình sác tựa con ve
Đôi hàng sườn sụn da căng sát
Hai hũm quai xanh nước đỏ be
Màu mỡ vì chưng ra cả bút
Thân hình nên mới ngẳng như que
Tú này béo mép, người không béo
Há phải như ai tướng lợn xề…!

Mười thương

Một thương tóc lệch đường ngôi,
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san.
Ba thương hôm sớm điểm trang,
Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau.
Năm thương lược Huế cài đầu,
Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên.
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền,
Tám thương động tí nữ quyền giở ra.
Chín thương cô vẫn ở nhà,
Mười thương… thôi để mình ta thương mình…

Nhắn nhủ ông nghị

Áo sa, khăn nhiễu, giầy ban
Kính trắng gọng vàng, tay cắp cặp da
Ấy là ông nghị vùng ta
Súng sa súng sính đi ra hội đồng
Mấy lời nhắn nhủ cùng ông
Có ra hội đồng thì miệng phải to
Xin đừng khúm núm co ro
Nói không ra tiếng họ cho rằng đần
Cũng đừng ngẩn mặt tần ngần
Ngồi nghe diễn thuyết ngủ dần thiu thiu

Ông cụ non

Nhớ thuở còn hàn vi,
Chửa nên danh phận gì.
Trí anh to tát lạ,
Chẳng thẹn tiếng nam nhi.
Bàn tính những công cuộc,
Lợi dân cùng ích nước.
Lưu danh cùng núi sông,
Mới thoả lòng ao ước.
Nay ngoáp chiếc lương to,
Yên thân được ấm no.
Đã quăng chí nguyện cũ,
Khối óc như thò lò.
Nghiễm nhiên mặt trưởng giả,
Thờ chủ nghĩa nhàn hạ,
Đội mũ ni che tai,
Việc đời thây kệ cả!
Ngày bốn buổi đi về,
Ăn no lại ngủ khè.
Ngoài câu truyện bếp nước,
Chắng thiết để tai nghe.
Làm bạn với non bộ,
Uốn cành cây cổ thụ.
Hết trưa lại đến chiều,
Lẩn thẩn như ma xó.
Uống rượu rồi ngâm thơ,
Say sưa khéo phỡn phờ.
Khác chi đồ cổ hủ,
Xác sống mà hồn mơ.
Người ta khi phú quý,
Càng phải phấn tâm trí.
Anh mới nếm phong lưu,
Cớ sao vội chết dí!
Non bộ kia nên xếp,
Chơi gì cảnh nhỏ hẹp.
Nọ giang sơn Việt Nam,
Mới thật là xinh đẹp.
Túi thơ thắt lại thôi,
Nậm rượu quẳng cho rồi.
Cái thứ đùi rung nẩy,
Chờ khi sáu bảy mươi.

Ông nghị đi hội đồng về

Ông ơi, ông đi đâu về
Có vẻ phỡn phè, phấn chấn hỡi ông?
Rằng tôi đi họp hội đồng
Mỗi năm một bận, hết lòng vì dân
Gật gù, nghe đọc diễn văn
Vì dân giáng sức mấy lần vỗ tay
Trăm công, nghìn việc, nặng thay!
Vì dân nên phải đêm ngày miên man
Bao chương dự toán luận bàn
Vì dân sái cổ gật tràn đòi phen
Nhờ trời công việc đã yên
Vì dân phải xuống Khâm Thiên giải sầu
Quản gì thức mấy đêm thâu
Vì dân khai trí mấy chầu tổ tôm
Mỗi năm vất vả mươi hôm
Một bầu nhiệt huyết vẫn ôm kè kè

Phụ bạc

Nhớ xưa còn thủa hàn vi
Chàng thời đi học, thiếp đi chạy hàng
Sớm hôm đầu đội vai mang
Yên phận bần hàn, kiếm gạo nuôi nhau
Lần hồi bữa cháo bữa rau
Chàng lo học tập mai sau thành tài
Công danh tiến bước kịp người
Mở mặt với đời, thiếp cũng hiển vinh
Bây giờ chàng đã nên danh
Chê thiếp vụng dại, nỡ đành phụ công
Khi nghèo còn vợ còn chồng
Đến khi phú quí, chồng đông, vợ đoài

Quan phán

Rất sang quan phán đầu toà
Ngất ngưởng xe nhà, chân bắt chéo khoeo
Ắn chơi xa xỉ đến điều
Đêm đêm nhà hát, chiều chiều cao lâu
Ở nhà mặc cảnh túng, sầu
Vợ, con, cha, mẹ cơm rau là thường
Chầu rượu quan chi cực sang
Tiền nuôi cha mẹ cưa gan từng đồng

Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu

Trong phòng khách cụ Trời
Cậu nhỏ dâng văn bôi
Xẩy tay đánh rơi vỡ
Nguyễn Khắc Hiếu ra đời
Từ khi Hiếu xuất thế
Vẫn nhớ cảnh thiên tiên
Bữa cơm thường phải rượu
Nhưng túi lại rỗng tiền
Liền xoay nghệ văn chương
Viết bừa bán phố phường
Thơ chay tha hồ uống
Say khướt suốt đêm trường
Rượu ngon thức nhắm ngon
Giọng văn lại càng giòn
Khối tình con, tình lớn
Giấc mộng lớn, mộng con.
Thích chí nằm ngâm nga
Tiếng động vang Ngân Hà
Trời hỏi: “Ai ngâm thế?”
Muôn tâu: Ấy Tản Đà!
Trời nổi trận lôi đình
Rằng: “Cái thằng tiên ranh
Ta đầy xuống hạ giới
Cho hắn chịu nhục hình
Ai ngờ hắn vẫn nhàn
Ngày tháng ngâm thơ tràn
Các người ai có cách
Bắt hắn phải gian nan?”
Chư tiên đồng thanh nói:
“Tội nặng nhất trần phàm
Là bắt anh Khắc Hiếu
Làm chủ báo An Nam”

Nhà thơ Tú Mỡ được đông đảo bạn đọc yêu thích bởi ngòi bút hiện thực sắc sảo gây ấn tượng mạnh mẽ đến độc giả. Những trang thơ của ông thường châm biếm và đả kích những thứ kệch cỡm trong xã hội. Mời các bạn đón xem phần 3 vào ngày không xa nhé! 

5/5 - (1 bình chọn)
Tagged: