Tú Mỡ là nhà thơ tiêu biểu trong thể thơ trào phúng đặc sắc. Tập thơ Dòng Nước Ngược Dòng là tên một chuyên mục trên Tuần báo Phong hoá, tờ báo chuyên văn chương và trào phúng của Tự lực văn đoàn, do Tú Mỡ phụ trách. Giọng văn hóm hỉnh nhưng cảm xúc nằm trong quỹ đạo trữ tình thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ bạn đọc. Hãy cùng nhau điểm qua những trang thơ hay của ông nhé!

Nhớ thời oanh liệt

(Lời than của một ông tham mới,
Nhại bài con hổ “Nhớ rừng” của Thế Lữ)
Ngậm một khối căm hờn trong buồng giấy,
Ta ngáp dài trông ngày tháng dần qua.
Khinh bọn phán già lẩm cẩm, ngẩn ngơ,
Giương mục kỉnh riễu cái oai tham biện.
So chiếc “lương mới” nhỏ nhen, bần tiện,
Chỉ xứng với người chữ kém tài không.
Liệt ngang hàng cùng với bác “lông tông”,
Ngồi đọc báo ở buồng bên, vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở vênh vang hống hách những ngày xưa.
Nhớ Cao đẳng tràng, đài các nguy nga
Là chốn năm xưa ta học tập.
Ngày hai buổi, trên giảng đài cao ngất,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.
Ta là một thiếu niên anh tuấn Việt Nam
Đến hấp thụ lấy văn minh Âu Á
Để tạo một tương lai kha khá
Mong mai sau công toại, danh thành,
Chiếm một chỗ làm có lợi, có danh
Trong một công sở, ta bình sinh toại chí.
Nhớ những đêm thanh, ta nằm ngẫm nghĩ,
Luống say sưa trong giấc mộng kê vàng
Ta mơ mòng sung sướng, vẻ vang:
Vợ đẹp, con khôn, cuộc đời đầy đủ.
Nhìn đời, thấy những màu hồng rực rỡ,
Lòng trẻ trung ta hy vọng chứa chan!
Ta nhớ những tiểu thư xinh đẹp, giàu sang,
Đợi ta với những của hồi môn to kếch:
Hàng mớ vốn riêng, hàng lô nhà gạch.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Nay ta ôm mối hận ngàn thâu,
Giận thời buổi đảo điên kinh tế,
Khiến cho chức “tham quan” ta rẻ ế,
Lương toèn hoen mỗi tháng năm mươi đồng,
Bao năm trời đèn sách chẳng đền công.
Đồng tiền ít, thân danh thấp kém,
Cuộc tình duyên, nghĩ càng hổ thẹn,
Cụ Tơ Hồng khéo hắt hủi, khéo cay chua!
Để ta phòng không lạnh lẽo, âm u!
Biết bao cảnh phong lưu, lạc thú
Mà ta xây trên chiếc lương “tham cũ”
Chỉ là những “lâu đài bên nước Y-pha-nho”
Ta chẳng mong thấy bao giờ.
Nghĩ nông nỗi trong lòng ta chết điếng
Chỉ có tiếng, nhưng không có miếng,
Cũng công danh mà thiên hạ chẳng ai vời.
Nghĩ buồn tênh cái tham lương mới của ta ơi!

Tu tiên

(Thi ca liên hành)
Làng văn có một bác nho điên,
Nhai được răm pho sách thánh hiền.
Lên mặt khinh đời là tục cả,
Cho mình kiếp trước vốn là tiên.
Bởi chưng hầu rượu Hoàng thiên
Lỡ tay vỡ chén cho nên bị đày.
Trời cao Iăn xuống đất dầy.
Chịu ba vạn sáu ngàn ngày khổ sai,
Vắt óc văn thơ được mấy bài,
Bán rao phường phố để sinh nhai
Bán văn mà lại khinh người đọc,
Rằng hiểu văn mình chẳng một ai!
Văn thơ bác cũng lạ đờị.
Toàn là câu truyện nhà Trời, cung Trăng…
Cô Tiên, chú Cuội, chị Hằng,
Những mơ cùng mộng, không chằng không giây
Ra công viết chán lại khen hay.
Văn chẳng ai mua, ấy mới rầy!
Tiên đã xuống Trần thời phải chén,
Lấy gì rượu thịt bữa no say?
Trần gian tri kỷ ai đây
Nghĩ đời luống những ngán thay cho đời
Đem văn lên bán chợ Trời,
Hoạ là Thượng giới có lời khen chăng!
Chích tiên trí đã quyết khăng khăng
Thoát tục, Thiên đường nhất định thăng
Từ giã gia đình cùng xã hội
Thẳng miền non Tản một mình băng
Nồi cơm, hũ rượu thôi quăng!
Định uống nước suối với ăn hoa rừng
Bụi trần rũ sạch lâng lâng,
Một phen tịch cốc quyết rằng tu tiên.
Mặc ai can gián, mặc ai phiền.
Tiên tử tìm đường tới cõi tiên.
Khốn nỗi trời đầy chưa mãn hạn
Khó lòng vượt tục để thăng thiên
Mệnh trời, khôn nỗi đảo điên,
Vả chàng nhập tục đã quen mùi trần
Rượu ty chừa cũng khó khăn
Thịt thơm cơm trắng, không ăn cũng rầy!
Lên núi tu tiên được mấy ngày.
Tu chưa đắc đạo, đói nhăn thây!
Thôi đành lóp ngóp quay về tục
Tu hũ, tu vò, chuếnh choáng say.

“Điếu” đức tụng

Người Việt Nam phải lấy thuốc lào làm quốc tuý
Còn thú vị nào hơn thú vị yên vân!
Từ vua, quan, đến hạng bình dân,
Ai là chẳng bạn thân với điếu…
Từ ông thừa, trở lên cụ thiếu,
Đi ngoài đường, phi điếu bất thành quan.
Ngồi công đường, vin xe trúc nghênh ngang,
Hút mồi thuốc, óc nhà quan thêm sáng suốt.
Nhà thi sĩ gọt câu văn cho chuốt,
Tất phải nhờ điếu thuốc gọi hồn thơ.
Lại những khi óc mỏi, mắt mờ,
Nhờ điếu thuốc mới có cơ tỉnh tớm…
Dân thuyền thợ thức khuya, dậy sớm,
Phải cần dùng điếu đóm làm vui.
Khi nhọc nhằn lau trán đẫm mồ hôi,
Vớ lấy điếu, kéo một hơi thời cũng khoái.
Dân cày cấy mưa dầm, nắng dãi,
Bạn tâm giao với cái điếu cầy.
Lúc nghỉ ngơi, ngồi dưới bóng cây,
Rít mồi thuốc, say ngây say ngất.
Rồi ngả lưng trên đám cỏ tươi xanh ngắt,
Dễ thiu thiu một giấc êm đềm.
Bạn nhà binh canh gác thâu đêm,
Nhờ điếu thuốc mới khỏi lim dim ngủ gật.
Nội các thức say sưa nghiện ngập,
Ngẫm mà coi, thú nhất thuốc lào.
Nghiện thuốc lào là cái nghiện thanh tao,
Chẳng hại tiền của, mà chẳng hao sĩ diện.
Chốn phòng khách, anh em khi hội kiến,
Có thuốc lào câu chuyện mới thêm duyên.
Khi lòng ta tư lự không yên,
Hút mồi thuốc cũng giải phiền đôi chút.
Nghe tiếng điếu kêu ròn, nhìn khói bay nghi ngút,
Nỗi lo buồn theo khói vút thăng thiên.
Cái điếu cùng ta là bạn chí hiền,
Từ thiên cổ tơ duyên chặt kết.
Cũng có kẻ muốn dứt tình khăng khít,
Vùi điếu đi cho hết đa mang.
Nhưng nỗi nhớ nhung bứt rứt tấm gan vàng,
Chút nghĩa cũ lại đa mang chi tận tuỵ.
Cho nên: bảo điếu thuốc lào là quốc tuý,
Thật là lời chí lý không ngoa.
Thuốc lào, ta hút điếu ta,
Điếu ta thọ với sơn hà muôn năm…

“Phở” đức tụng

Trong các món ăn “quân tử vị”,
Phở là quà đáng quý trên đời.
Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi,
Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
Náy bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ,
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.
Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm, ớt điểm thêm,
Khói nghi ngút đưa lên thơm ngát mủi.
Như xúc động tới ruột gan bàn phổi,
Như giục khơi cái đói của con tì.
Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì,
Xới một bát nhiều khi chưa thích miệng.
Kẻ phú quý cho chí người bần tiện,
Hỏi ai là đã nếm không ưa,
Thầy thông, thấy phán đi sớm về trưa,
Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ.
Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả,
Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn.
Khách làng thơ đêm thức viết văn,
Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…
Bọn đào kép, con nhà ca kỹ,
Lấy phở làm đầu vị giải lao.
Chúng chị em sớm mận tối đào,
Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc.
Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc,
Quế, phụ sâm, nhung chưa chắc đã hơn gì.
Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.
Anh em lao động đồng tiền không rúc rích,
Coi phở là môn thuốc ích vô song.
Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,
Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món.
Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,
Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.
Cùng các cao lương vạn quốc phô trương,
Ngon lại rẻ, thường hay quán giải.
Sống trên đời, phở không ăn cũng dại,
Lúc buông tay ắt phải cúng kem.
Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.

Bài phú “thầy phán”

(Tự trào)
Sở có một thầy:
Mặt mũi khôi ngô
Hình dung chững chạc
Quần là ống sớ, áo vận khuy vàng
Khăn lượt vành giây, ô che cán bạc
Bảnh bao lắm mốt, trời nắng, mưa: giầy nọ, giầy kia
Lịch sự đủ vành, mùa rét, nực: mũ này, mũ khác
Ra phết quan thông, quan phán, đua ngón phong lưu
Rập rìu tài tử, giai nhân, điểm mùi đài các
Trong đóm ngoài đuốc, trông ra mầu mỡ riêu cua
Tiếng cả nhà thanh, xét kỹ thân hình pháo xác
Cuối tháng ba mươi, ba mốt, giấy bạc rung rinh
Qua ngày mười một, mười hai, ví tiền rỗng toác
Sổ tiêu tính phác, hy hoay cộng cộng, trừ trừ
Lương tháng thấy vèo, tuyu nguỷu ngơ ngơ, ngác ngác
Ấy cũng bởi vung tay quá trán, mới đâm đầu vương lấy nợ như lông lươn
Mà lại còn quen thói bốc trời, chết đến đít vẫn coi tiền như cỏ rác
Ăn toàn ăn sỏi, khi Hiệp Thành, khi Nguyên Lợi, khi Đông Hưng, khi Nhật Tân
Chơi cũng chơi sành, tối Pa-lát, tối Pa-tê, tối Sán Nhiên, tối Quảng Lạc
Bè bạn những sừ tham, sừ ký, một bọn trai lơ
Nhân tình nào con hát, con đào, cùng phường đĩ rạc
Chức đệ tam chi thư ký, nhà nước cấp bằng
Hàm điển tịch chi hàn lâm, trào đình ban sắc
Tiếng Lang-sa thoắng trơn nước chẩy, những “uẩy” cùng “nông”
Câu Hán tự giốt đặc cán mai, đọc “tộ” hoá “tác”
Giở những giọng văn chương sốc nổi “tam tổ thánh hiền”
Bàn những điều nghĩa khí viển vông “thiên hô bát sát”
Hai buổi đến ung dung ư buồng giấy, sổ to, sổ nhỏ bày liệt, bày la
Mấy giờ ngồi chễm chệ ư ghế mây, mực đỏ, mực đen viết chi, viết chát
Lỡ buổi đi trưa, nhìn trước nhìn sau lấm lét, rụt rè như rắn ráo mồng năm
Lỡ khi lầm lỗi, đứng lên ngồi xuống băn khoăn, ủ rũ như diều hâu tháng chạp
Hễ động lúc luôn tay bận bịu, mặt nặng bằng đá đeo, gắt ỏm mắm tôm, cau cau có có, kêu ca việc này khó, việc nọ dài
Chẳng bù khi khểnh cẳng ngồi rồi, cười ròn như nắc nẻ, tán nhăng phó-mát, cợt cợt, bông bông, bình phẩm xếp kia lành, xếp ấy ác
Truyện nào có ra chuyện, giở dại giở khôn
Đùa nào có ra đùa, nửa nạc nửa mỡ
Vắng mặt chủ nghịch nô như quỷ sứ, tầm váo, tầm vênh
Thấy hút Tây vờ vĩnh khéo ma bùn, nhớn nhơ, nhớn nhác
Chỉ những ước được thưởng mề đay năm bẩy chiếc, sở nguyện thầy cũng khá cao xa
Lòng chỉ mong xơi lên lương bổng bốn năm đồng, hy vọng thầy thật là to tát
Nhiên nhi:
Luống hợm mình thế kia thế khác, lập loè sĩ diện với bà con
Còn đắc chí ta đây kẻ giờ, khinh khỉnh vênh vang cùng xóm mạc
Sự nghiệp có thế thôi, người ngoài cuộc tưởng rằng ghê gớm, chẳng trách nào ai cũng ước ao!
Công danh không mấy hột, kẻ qua cầu mới biết giở giang, dám nhắn nhủ khách đừng khao khát

Bầu cử

Thiên hạ nôn nao họ rủ nhau:
Người ra ứng cử, kẻ đi bầu.
Phen này lắm cậu gia tài vỡ,
Mà chức “Ông dân” đã chắc đâu!
Họ kéo từng đàn xuống xóm hát,
Lu bù ngày ấy sang đêm khác
Phen này ông quyết xuống KT
Mở tiệm cô đầu có lẽ phát
Họ mời nhau chén tại cao lâu
Thả cửa sâm panh với rượu Tầu
Các chú phen này càng béo bở
Annam còn lắm cuộc đi bầu!
Lẳng lặng mà nghe họ diễn thuyết:
Công tâm công ích lời tâm huyết…
Phen này mở hiệu viết văn thuê
Dẫu chẳng làm giầu cũng đỡ kiết
Họ quẳng tiền ra để cạnh tranh
Nghe đâu mỗi vé một “rồng xanh”
Phen này có lẽ mưa ra bạc,
Mà nghị viện ta lắm phỗng sành!
Họ lại ra công làm quảng cáo
Đen ngòm cả cột mấy tờ báo
Chương trình đem đọc thật là kêu,
Thử nghĩ sau này ai nói láo.
Họ kể xấu nhau như hát hay,
Hàng rau, hàng cá cũng thua tài,
Phen này bào chế tha hồ đắt:
Thuốc tím cần mua để rửa tai.
Xem cuộc mua danh thực dữ dội,
Người hay, kẻ dở, trò thơm thối…
Quốc dân được lợi cuộc mua vui,
Chẳng phải mất tiền xem hát bội.

Bốn lần đi thi

(Tả cảnh một ông phán làm việc ở tỉnh xa, bốn lần về Hà thành thi tham biện)
Lần đầu về thi tại Hà thành
Anh em tấp nập đến tiễn hành
Tiệc rượu linh đình thật vui vẻ
Chén thù chén tạc chúc công danh
Đi về tốn bao tiền phí lộ
Thế mà thi cử lại cóc đỗ
Lời chúc hôm xưa chẳng được thành
Anh em an ủi chia buồn hộ
Cách một năm sau lại về thi
Được tiệc trà soàng tiễn chân đi
Bạn rằng: “khoa trước anh đã rủi
Chắc hẳn công danh đến khoá nhì”
Tại mình, tại trời, hay tại số
Mà đến khoa này lại vô bổ?
Bạn lại hỏi thăm chỉ lắc đầu
Không ai chê cười mà sấu hổ
Năm sau, đi thi lần thứ ba
Được vài bốn anh tiễn ra ga
Suông tình đưa mấy lời chúc tụng
Mất cả tiệc rượu lẫn tiệc trà
Khoa này tưởng khác hai khoa trước
Chẳng may trời làm trượt vẫn trượt
Giở về, bạn hỏi thi thế nào?
Cay đắng đáp rằng: “Tớ lại bước!”
Đến bận thứ tư về Hà thành
Bạn hỏi làm gì, nói dối quanh
Không tiệc, không trà, không kẻ tiễn
Một mình lủi thủi lối công danh
Một mình đi thi, một mình biết
Chẳng khiến ai mừng cùng ai tiệc…
Con đường danh lợi, đường chông gai
Phen này có bương đỡ tha thiết
Kết luận
Cái cuộc ganh đua khó lạ nhường
Thấy ai lận đận nghĩ mà thương
Vinh hoa là bả cho người thật!
Một bước công danh, bước đoạn trường

Chồng gàn

Mợ thấy chồng người lên chức “tham”
Xe nhà ngất ngưởng ngự đi làm
Lương sơi mỗi tháng hàng gang bạc
Mợ tưởng danh lừng khét đất Nam
Mợ về mợ dục tôi xoay học
Khuân sách trong hòm chúi mũi đọc
Nhà nước sang năm mở khoá thi
Vác cây bút sắt ra cầy cục…
Thấy tôi chỉ mải viết văn thơ
Mợ mắng tôi rằng: “Khéo vẩn vơ!
Luyện tập làm gì văn quốc ngữ
Lao tâm, tổn trí, mất thì giờ!”
Mợ bắt tôi theo đời vật chất
Học mong thi đỗ, nhờ hòn đất
May ra ngoáp được con ruồi xanh
Mợ sẽ lên bà “tham biện tắt”
Tôi vốn trời sinh tính khác người
Không ưa bôn tẩu như ai ai
Phàm danh, tục lợi lòng không bợn
Chỉ thích cuộc đời dản dị thôi
Áo quần ưa mặc the cùng vải
Ghét rượu, ghét chè, ghét trai gái
Thuốc phiện, bạc bài lại rất kiêng
Lương dẫu không cao vẫn thừa thãi
Ơn trời mắt sáng, chân tay lành
Xe đạp trèo lên phóng rất nhanh
Hà tất xe nhà đầy tớ kéo
Chẳng là không hợp lẽ trời sinh
Đời người bóng ngựa nhoáng qua sổ
Không lẽ chỉ lo thi với đỗ
Nếu chẳng góp gì với núi sông
Trăm năm cũng mục như cây cỏ
Hai chữ công danh chán lắm rồi
Làm ăn cứ miễn đủ tiêu thôi
Tôi van, đừng bắt tôi thi nữa
Xin để linh hồn tôi thảnh thơi!

Duyên con vồ

“Me tây” kia trở về già
Vớ anh phán kiết la cà kết duyên
Anh thời say chị lắm tiền
Chị mê anh trẻ, có duyên mặn mà
Trúc mai xum họp một nhà
Rõ rằng trúc mọt, mai già sánh đôi
Mình mình với lại tôi tôi
Anh làm cho chị tưởng đời còn xuân
Chị thời vỗ đức lang quân
Sắm cho xe ngựa, áo quần bảnh bao
Ngờ đâu anh thắng bộ vào
Anh đi sớm mận, tối đào lung thiên
Một lần chị để anh yên
Hai lần chị nổi cơn ghen tam bành
Ba lần chị phát lôi đình
Lót tay lá chuối lôi anh phú về…

Hồ Gươm phú

Tặng cô Thoại Ngữ, người bạn xa chưa quen biết. (Hội Khai trí Tiến Đức có mở cuộc thi văn chương, trong các môn thi có bài phú Hồ Gươm, hạn vần: ’’Hồ đó, gươm đâu?’’ Tú Mỡ thấy đầu đề hay, cũng hứng bút viết chơi. Viết chơi thôi, không dự thi, và cố nhiên không lấy thưởng…!)

Nghìn năm văn vật
Nhất chốn kinh đô.
Tuy nhiều thắng cảnh,
Đâu đẹp bằng hồ…

*

Thợ Tạo đã tài xếp đặt,
Công người cũng khéo điểm tô.
Giữa trần tục xen nơi tiên cảnh,
Trong thị thành nổi đảo san hô.

Sỏng biếc lăn tăn, lấp lánh vàng gieo ngấn nước,
Cây xanh rườm rạp, lơ thơ liễu rủ quanh bờ.
Đền Ngọc Sơn tháp bút nguy nga, tôn cảnh non bồng tịch mịch.
Cầu Thê Húc màu son đỏ thắm, chắn làn nước cuốn lô xô.
Nào những khi gió nồm hây hẩy, nào những khi sương toả lở mờ,
Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một vẻ,
Nào những lúc nắng mới rung rinh, nào những lúc trăng soi vằng vặc,
Sáng, trưa, chiều, tối, bao cảnh nên thơ.

Qua tỉnh Hà đây,
Dạo hồ Kiếm đó,
Ngắm cảnh ngày nay,
Nhớ hồi sử cũ:

Diệt vua nguỵ Quý Ly,
Gớm tướng Minh Trương Phụ,
Giả danh nghĩa hiệp khôi phục Trần gia,
Giở ngón gian hùng đoạt thâu Việt thổ.

Dân lành hai nhăm triệu, rắp đem làm kẻ tì nô;
Nước cũ bốn nghìn năm, dìm đặt dưới quyền đô hộ.
Trên, bọn quan quân tàn bạo, chỉ lo vơ vét, thoả dạ tham ô;
Dưới, dân sưu dịch nặng nề, cam chịu lầm than, nhiều bề cực khổ.
Nào xuống bể mò trai, lấy ngọc, ai oán vô cùng.
Nào lên rừng tróc tượng, săn tê, căm hờn quá độ.

May sao:
Nhà nông Lê Lợi,
Kẻ sĩ Lam Sơn,
Thấy dân khốn đốn,
Động lòng xót thương

Quyết chí lớn tảo trừ giặc nước
Dựa thần thiêng trao tặng lưỡi gươm.
Hào kiệt ra tay phất cờ cứu quốc,
Anh hùng lập nghiệp, khởi nghĩa xưng vương.

Trận Tuy Động, Vương Thông kinh hồn, mảnh giáp chẳng còn, bon về cố quốc.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng bỏ xác, đầu lâu lăn lóc tại chốn sa trường.
Vùng vẫy ngoại mười năm, quét sạch non sông quân Bắc tặc;
Lẫy lửng trong vạn thuở, mở mang bờ cõi đất Nam. Phương.

Ôi!
Nghìn thu đất nước
Một cuộc bể dâu
Hồ Gươm vẫn đó.,
Thần kiếm chìm đâu?

Chỉ thấy tượng đồng cao chót vót,
Đứng trông làn nước vẩn xanh ngầu!
Toà nhà Khai trí ben đền, trống bài điếm chát tom, thái bưởng quá nhỉ!
Vườn cảnh Bônbe trước mặt, khách phồn hoa nhộn nhịp, vui vẻ xiết bao!

Giầu và nghèo

(Độc vần)
Đồng bạc sinh ra kẻ khó, giầu
Vụng xoay thời khó, khéo thời giầu
Giầu đeo tiếng xấu không bằng khó
Khó giữ danh thơm chẳng kém giầu!
Chớ hợm mình giầu khinh bỉ khó
Đừng than thân khó ghét ghen giầu
Ai ôi, giữ lấy lòng trong sạch
Bận bịu làm chi nỗi khó, giầu

Hư danh

Bác kia, ruộng cả ao liền
Lắm bạc, nhiều tiền, chạy tước, mua danh
Bài ngà với áo thụng xanh
Súng sa súng sính như anh phường chèo
Về làng khao vọng ỉ eo
Ăn trên, ngồi trốc, eo sèo thịt sôi
Bây giờ cơ nghiệp đi đời
Thẻ ngà, giấy sắc đem mài mà ăn

Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn những trang thơ vô cùng hấp dẫn của nhà thơ Tú Mỡ. Qua đó ta cảm nhận được ngòi bút tài hoa về thơ trào phúng châm biếm đặc sắc của ông. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất !

 

Tagged: