Tế Hanh dành trọn tâm huyết của mình cho những thi phẩm dịch nổi tiếng trên thế giới. Trong đó có chùm thơ dịch của Andrey Andreevich Voznhesenski. Ông là một nhà văn, nhà thơ Nga kiệt xuất được nhiều bạn đọc năm châu ca ngợi. Rất nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và trở thành những bài hát nổi tiếng. Riêng đối với bạn đọc Việt Nam, có lẽ ai cũng biết bài hát Triệu bông hồng (Миллион алых роз) phổ thơ của Andrey Voznesensky, đã được dịch sang tiếng Việt từ lâu và trở thành bài hát được nhiều người yêu thích. Nào, hãy cùng chúng tôi đến với những thi phẩm dịch của nhà thơ Tế Hanh nhé!

“Bằng thời gian anh giao kết cùng em”

Bằng thời gian anh giao kết cùng em
Không phải với nhẫn vàng mà với đồng hồ điện
Anh lo sợ những phút giây sẽ biến
Chúng ấm áp vì có bàn tay âu yếm của em yêu.

“Hãy sống không phải trong không gian mà trong thời gian”

Живите не в пространстве, а во времени,
Минутные деревья вам доверены,
Владейте не лесами, а часами,
Живите под минутными домами,
И плечи вместо соболя кому-то
Закутайте в бесценную минуту.
Какое несимметричное время!
Последние минуты — короче,
Последняя разлука — длиннее…
Килограммы сыграют в коробочку.
Вы не страус, чтоб уткнуться в бренное.
Умирают — в пространстве.
Живут — во времени.

Dịch

Hãy sống không phải trong không gian mà trong thời gian
Những cây cối phút giây đầy tin cậy
Hãy làm chủ không phải những khu rừng mà là khoảnh khắc
Hãy sống trong phút giây như dưới mái nhà
Và đôi vai ai kia, xin đừng cuốn với lông chồn
Mà quấn với một giờ vô giá
Thời gian sao mà không đối xứng?
Những phút giây cuối cùng – hãy ngắn hơn đi
Cuộc chia ly cuối cùng – hãy dài thêm nữa
Người ta chết – là trong không gian
Người ta sống – là trong thời gian

“Nếu có cuộc thi vô địch” 

Если были бы чемпионаты
Кто в веках по убийствам первый…
«Ты бы выиграл, век двадцатый!» –
Усмехается век двадцать первый.
Если были бы чемпионаты
Кто по лжи и по подлости первый…
«Ты бы выиграл, век двадцатый!» –
Усмехается век двадцать первый.
Если были бы чемпионаты
Кто по подвигам первый…
Нет нам равных, мой век двадцатый!
Безмолвствует век двадцать первый.

Dịch

Nếu có cuộc thi vô địch
Sự giết người, thế kỷ nào xếp nhất
Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi
Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười
Nếu có cuộc thi vô địch
Sự giả dối đê hèn, thế kỷ nào xếp nhất
Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi
Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười
Nếu có cuộc thi vô địch
Thế kỷ nào đứng đầu kỳ tích
Thế kỷ hai mươi của tôi chẳng thế kỷ nào bằng
Thế kỷ hai mốt lặng câm

“Trí nhớ – đó là bầy sói trên cánh đồng”

Память – это волки в поле,
убегают, бросив взгляд, –
как пловцы в безумном кроле,
озираются назад!

Dịch

Trí nhớ – đó là bầy sói trên cánh đồng
Chúng chạy và quăng cái nhìn về phía trước
Như người bơi crun trên nước
Toả luồng sáng đằng sau

Cảm hoài về hiện tại

Я не знаю, как остальные,
Но я чувствую жесточайшую
Не по прошлому ностальгию –
Ностальгию по настоящему.
Будто послушник хочет к Господу,
Ну а доступ лишь к настоятелю –
Так и я умоляю доступа
Без посредников к настоящему.
Будто делал я что-то чуждое,
Или даже не я – другие.
Упаду на поляну – чувствую
По живой земле ностальгию.
Нас с тобой никто не расколет,
Но когда тебя обнимаю –
Обнимаю с такой тоскою,
Будто кто тебя отнимает.
Когда слышу тирады подленькие
Оступившегося товарища,
Я ищу не подобья – подлинника,
По нему грущу, настоящему.
Одиночества не искупит
В сад распахнутая столярка.
Я тоскую не по искусству,
Задыхаюсь по-настоящему.
Всё из пластика – даже рубища,
Надоело жить очерково.
Нас с тобою не будет в будущем,
А церковка …
И когда мне хохочет в рожу
Идиотствующая мафия,
Говорю : “Идиоты – в прошлом.
В настоящем – рост понимания.”
Хлещет чёрная вода из крана,
Хлещет ржавая, настоявшаяся,
Хлещет красная вода из крана,
Я дождусь – пойдёт настоящая.
Что прошло, то прошло. К лучшему.
Но прикусываю как тайну
Ностальгию по настающему,
Что настанет. Да не застану.

Dịch

Chẳng biết những người khác thì sao
Riêng tôi thấy vô cùng ngưỡng vọng
một nỗi cảm hoài không phải về dĩ vãng
mà về hiện tại này đây
Dường như tôi đã làm một việc gì lạ lắm
hay chẳng là tôi mà những ai ai
Khi tôi lăn trên bãi cỏ xanh và cảm thấy
Trong đất rưng rưng một nỗi cảm hoài
Chẳng có ai chia rẽ hai ta
nhưng khi anh ôm em tha thiết
anh ôm em với nỗi buồn da diết
tưởng chừng như ai đó ôm em
Khi tôi nghe những lời nói giả vờ
của người đồng chí hay nhầm lẫn
tôi tìm không phải bản sao mà là nguyên bản
tôi buồn rầu vì hiện tại bao nhiêu!
Tất cả tự tạo nên mình, thậm chí đồ giẻ rách
cũng chán sống giản đơn sơ lược
Anh và em không còn nữa trong tương lai
chỉ còn ngưỡng vọng thôi sao?
Và khi một gã lưu manh
cười sằng sặc vào mũi tôi
tôi bảo: kẻ này là quá khứ
còn hiện tại đã trưởng thành
Dòng nước màu đen xối xả từ vòi
dòng nước màu hung xối xả không thôi
dòng nước mùi rỉ han xối xả
tôi chờ dòng nước thật chảy ra
Cái gì qua đi thì qua đi
Nhưng tôi nhấm nỗi cảm hoài thực tại
như nhấm một điều gì bí mật
mà tôi chưa thấy bao giờ.

Cây Xêqua Lênin Секвойя Ленина

В автомобильной Калифорнии,
Где солнце пахнет канифолью,
Есть парк секвой.
Из них одна
Ульянову посвящена.
“Секвойя Ленина?!”
Ату!
Столпотворенье, как в аду.
“Севойя Ленина?!”
Как взрыв!
Шериф, ширинку не приклыв,
Как пудель с красным языком,
Ввалился к мэру на прием.
“Мой мэр, крамола наяву.
Корнями тянется в Москву…
У!..”
мэр съел сигару. Караул!
В Миссисипи
сиганул!
По всей Америке сирены.
В подвалах воет населенье.
Несутся танки черепахами.
Орудует землечерпалка.
. . . . . . . . . . .
Зияет яма в центре парка.
Кто посадил тебя, секвойя?
Кто слушал древо вековое?
Табличка в тигле сожжена.
Секвойи нет.
Но есть она!
В двенадцать ровно
ежесуточно
над небоскребами
светла
сияя крной парашютовой
светя
прожектором ствола
торжественно-озарена
секвойи нет
и есть она
вот так
салюты над Москвою
листвой
таинственной
висят
у каждого своя Секвойя
мы Садим Совесть Словно Сад
секвойя свет мой и товарищ
в какой бы я ни жил стране
среди авралов и аварий
среди оваций карнавальных
когда невыносимо мне
я опускаюсь как в бассейн
в ее серебряную сень
ее бесед — не перевесть..
Секвойи — нет?
Секвойя — есть!

Dịch

Ở xứ Califonia nhiều ô tô
Ánh nắng nghe mùi nhựa
Trong công viên trồng Xêqua
Có một cây mang tên Vladimir Ulianov
Là cây Xêqua Lênin
Ô! Ô!
Một sự hỗn loạn quỷ ma
Cây Xêqua Lênin!
Sấm động!
Tên quận trưởng ống quần mở rộng
Lè cái lưỡi đỏ dài như con chó ngao
Tất tưởi đến tên thị trưởng
Thưa ngài thị trưởng, phản bội rồi!
Tất cả đường dây đều dẫn đến Matxcơva
Ôi cha!
Tên thị trưởng đớp điếu xì gà
Hô Lê: Chạy trốn!
Và lánh vào xứ Missisipi
Khắp cả nước Mỹ hồi còi kêu rống
Người ta rên la chạy trốn trong hầm
Những chiến xa nhào tới như những con rùa khổng lồ
Một chiếc cần cẩu im lìm làm việc!
Ở giữa công viên như lỗ hổng mở to
Ai trồng cây đấy, Xêqua?
Ai lắng nghe cây, hỡi cây cổ thụ?
Cái biển đề tên bị đốt trụi
Không còn tên cây Xêqua
Như không! nó vẫn đứng đó!
Mỗi ngày một cao thêm
hơn cả nhà chọc trời
Đầy ánh sáng
Rung rinh như cái dù thả từ máy bay
Thân cây như ngọn đèn
Chiếu sáng, vươn xa, soi thắp
Thế nào? Không còn cây Xêqua?
Không! nó vẫn đứng kia mà!
Như thể trên trời Matxcơva
những chùm pháo Hoa từ vòm bí mật
Mỗi người có cây Xêqua của mình
Chúng ta trồng trong vườn ta sự sáng suốt
Cây Xêqua đồng chí của ta
Tôi làm gì và ở đâu
Đi chậm hay đi mau
Khi nào mệt mỏi
Tôi tắm mình trong bể bơi
của bóng cây ánh bạc
và nói chuyện với cây những gì không nói được
Sao? Không có cây Xêqua?
-Vẫn có cây Xêqua!

Công trình Hесущих

Аэропорт – озона и солнца
аккредитованное посольство!
Сто поколений
не смели такого коснуться —
преодоленья
несущих конструкций.
Вместо каменных истуканов
стынет стакан синевы —
без стакана.
Рядом с кассами-теремами
он, точно газ,
антиматериален!
Бруклин – дурак, твердокаменный чёрт.
Памятник эры —
Аэропорт.

Dịch

Sân bay – sứ quán đặc mệnh toàn quyền
Của chất ô-zôn và tia nắng xém
Hàng trăm thế hệ
Không thể nào đụng đến
Cái kiên cố bền lâu
những công trình xây dựng trên cao
Nơi những khối đá bất di bất dịch
Chỉ có một cái cốc lớn trời xanh thủy tinh không phải thủy tinh
Cạnh những tủ sắt cột rường có thật
Nó như hơi
không vật chất!
Cạnh Brúclyn, cái đầu cầu bằng đá ngu si
Sân bay
Đài kỷ nguyên đây

Đông lại Замерзли

Заведи мне ладони за плечи,
обойми,
только губы дыхнут об мои,
только море за спинами плещет.
Наши спины, как лунные раковины,
что замкнулись за нами сейчас.
Мы заслушаемся, прислонясь.
Мы – как формула жизни двоякая.
На ветру мировых клоунад
заслоняем своими плечами
возникающее меж нами –
как ладонями пламя хранят.
Если правда, душа в каждой клеточке,
свои форточки отвори.
В моих порах стрижами заплещутся
души пойманные твои!
Все становится тайное явным.
Неужели под свистопад,
разомкнувши объятья, завянем –
как раковины не гудят?
А пока нажимай, заваруха,
на скорлупы упругие спин!
Это нас погружает друг в друга.

Dịch

Tay anh ôm lấy vai em
Ngoài ra không biết quanh mình gần xa
Chỉ còn hơi thở hai ta
Chỉ còn hơi biển mượt mà sau lưng
Lưng ta là vỏ ốc trăng
Mở ra khép lại phẳng bằng biển khơi
Lắng tai nghe thử em ơi
Ta như công thức của đời kết tinh
Giữa cơn gió loạn mông mênh
Lấy vai che chở mối tình miên man
Những gì là của anh em
Như che ngọn lửa, mu bàn tay bao
Nếu như trong mỗi tế bào
Có linh hồn ở ra vào cửa ngăn
Ở trong tấm lưới anh giăng
Hồn em như thể cánh chim chập chờn
Những gì tối sẽ sáng hơn
Tiếng còi kết thúc qua cơn bồi hồi
Chúng ta không lẽ buông trôi
Giống như vỏ ốc để lời lặng im?
Trong khi chờ đợi hỡi em!
Như cơn gió mạnh qua miền biển xanh
Anh trong em, em trong anh
Chúng ta ngủ giấc ân tình triền miên

Giấc mơ Сон

На площади судят нас, трех воров.
Я тоже пытаюсь дознаться – кто?
Первый виновен или второй?
Но я-то знаю, что я украл.
Первый признался, что это он.
Второй улики кладет на стол.
Меня прогоняют за то, что вру.
Но я-то помню, что я украл.
Пойду домой и разрою клад,
где жемчуг теплый от шеи твоей…
И нет тебя засвидетельствовать,
чтобы признали, что я украл.

Dịch

Ở quảng trường đang xét xử ba tên ăn cắp
Tôi cố đoán là ai
Tên thứ nhất hay tên thứ hai
Nhưng tôi đây biết là tôi ăn cắp
Tên thứ nhất thú nhận rằng chính hắn
Tên thứ hai đưa chứng cớ lên bàn
Họ cho tôi nói dối, họ dồn tôi
Nhưng tôi đây nhớ rằng tôi ăn cắp
Tôi đi về nhà và bới trong kho báu
một chuỗi ngọc ấm từ cổ em
Và chẳng có em làm chứng giùm
để họ tin rằng tôi ăn cắp

Im lặng! Тишины!

Тишины хочу, тишины!..
Нервы, что ли, обожжены?
Тишины…
чтобы тень от сосны,
щекоча нас, перемещалась,
холодящая словно шалость,
вдоль спины, до мизинца ступни.
Тишины…
Звуки будто отключены.
Чем назвать твои брови с отливом?
Понимание – молчаливо.
Тишины.
Звук запаздывает за светом.
Слишком часто мы рты разеваем.
Настоящее – неназываемо.
Надо жить ощущением, цветом.
Кожа тоже ведь человек,
с впечатленьями, голосами.
Для неё музыкально касанье,
как для слуха – поёт соловей.
Как живется вам там, болтуны,
чай, опять кулуарный авралец?
горлопаны не наорались?
Тишины…
Мы в другое погружены:
в ход природ неисповедимый.
И по едкому запаху дыма
мы поймём, что идут чабаны.
Значит, вечер. Вскипает приварок.
Они курят, как тени тихи.
И из псов, как из зажигалок,
светят тихие языки.

Dịch

Im lặng, tôi chỉ mong im lặng
Có lẽ những đường gân đã vỡ rồi chăng?
Im lặng
Hãy để bóng một cây thông
Vuốt ve vừa rơi xuống
Như màn kịch lạnh lùng
Chạy từ cổ đến chân
Những tiếng những lời như cành cây tách ra
Cặp lông mày em sao mà ngời chói?
Hiểu mà không cần lời nói
Im lặng
Âm thanh chậm hơn ánh sáng
Chúng ta thường mở mồm quá to
Mọi sự có mặt đều không có tên
Sống ngang tầm những sắc màu cảm giác
Da cũng như con người
Nó biết cảm biết nghe
Sự vuốt ve như điệu nhạc
Tiếng chim hoạ mi ca hát
Bọn lắm lời!
Các anh làm gì dưới thấp?
Các anh la hét chưa đủ sao?
Im lặng
Ở đây chúng tôi như tắm
Trong dòng bí mật của thiên nhiên
Nghe mùi khói cay
Chúng tôi biết những người chăn cừu xuống núi
Và đêm đến, bữa ăn đã sẵn sàng
Như những cục bóng lặng câm những người chăn cừu hút thuốc
Bầy chó nằm im
Lưỡi lè ra sáng ngời như những cái bật lửa

Nguyền rủa Анафема

(Памяти Пабло Неруды)
Лежите Вы в Чили, как в братской могиле.
Неруду убили!
Убийцы с натруженными руками
подходят с искусственными венками.
Солдаты покинули Ваши ворота.
Ваш арест окончен. Ваш выигран раунд.
Поэт умирает –
погибла свобода.
Погибла свобода –
поэт умирает.
Лежите Вы навзничь, цветами увитый,
как Лорка лежал, молодой и убитый.
Матильду, красивую и прямую,
пудовые слезы
к телу
пригнули.
Поэтов
тираны не понимают,
когда понимают –
тогда
убивают.
Оливковый Пабло с глазами лиловыми,
единственный певчий
среди титулованных,
Вы звали на палубы,
на дни рождения!..
Застолья совместны,
но смерти – раздельные…
Вы звали меня почитать стадионам –
на всех стадионах кричат заключенные!
Поэта убили, Великого Пленника…
Вы, братья Неруды,
затворами лязгая,
наденьте на лацканы
черные ленточки,
как некогда алые, партизанские!
Минута молчанья? Минута анафемы
заменит некрологи и эпитафии.
Анафема вам, солдафонская мафия,
анафема!
Немного спаслось за рубеж
на «Ильюшине»…
Анафема
моим демократичным иллюзиям!
Убийцам поэтов, по списку, алфавитно –
анафема!
Анафема!
Анафема!
Пустите меня на могилу Неруды.
Горсть русской земли принесу. И побуду.
Прощусь, проглотивши тоску и стыдобу,
с последним поэтом убитой свободы.

Dịch

(Viết sau khi nghe tin Nêruđa mất)
Anh nằm xuống ở Chi Lê: Hố chôn người công cộng
Người ta đã giết Nêruđa
Bọn lính phải ra khỏi nhà
Không thể bắt nhà thơ – Anh đã thắng
Nhà thơ không còn
Tự do đã chết
Nhà thơ không còn
Bọn độc tài không thể hiểu nhà thơ
Khi chúng hiểu
Chúng liền giết họ
Pablô, quả ô-liu với đôi mắt màu hoa li-la
Người ngợi ca duy nhất
trong những ngày lễ
anh gọi chúng ta đến quanh bàn
Quạnh hiu

những nhà thơ
Những thùng nước mắt chúng ta
chảy về chị Matinđa đẹp xinh và đứng thẳng
Người ta đã giết nhà thơ
Người tù vĩ đại
Các bạn
anh em của Nêruđa
các bạn hãy lên nòng súng
gài vào tay áo
những tấm băng đen
như ngày xưa
những tấm băng đỏ
của đoàn quân du kích
Một phút lặng im
Một phút nguyền rủa
thay cho điếu văn
và thơ phúng
Nguyền rủa lũ bay bọn khủng bố đê hèn
Nguyền rủa!
Ít người ra khỏi nơi tù đày
Nguyền rủa những trò dân chủ
Nguyền rủa bọn giết hại nhà thơ
trong danh sách thống kê
theo thứ tự a, b
Nguyền rủa!
Nguyền rủa!
Để cho tôi, để cho tôi đến mộ
Pablô
Tôi đem đến một nắm đất Nga
Tôi xin tỏ lời từ biệt
Nuốt tức giận căm hờn
tôi xin tỏ lời từ biệt
nhà thơ cuối cùng
của niềm tự do cuối cùng

Người tí hon bằng cát Песчаный человек

Человек бежит песчаный
по дороженьке печальной.
На плечах красиво сшита
майка в дырочках, как сито.
Не беги, теряя вес,
можешь высыпаться весь!
Но не слышит человек,
продолжает быстрый бег.
Подбегает он к Москве
остается ЧЕЛОВЕ…
Губы радостно свело
остается лишь ЧЕЛО…
Майка виснет на плече
от него осталось ЧЕ…
. . . . . . . . . . . . . .
Человечка нет печального.
Есть дороженька песчаная…

Dịch

(Viết cho thiếu nhi)
Một con người bằng cát
chạy trên con đường buồn
Trên vai anh rõ đẹp
thủng lỗ chiếc may-ô
Đừng chạy mất trọng lượng
anh có thể tan ra
Nhưng anh không nghe thấy
cứ tiếp tục chạy nhanh
Chẳng có con người buồn
có con đường bằng cát

Nói theo cách Rasul Gamzatov

Если б были чемпионаты,
кто в веках по убийствам первый, —
ты бы выиграл, Век Двадцатый.
Усмехается Век Двадцать Первый.
Если б были чемпионаты,
кто по лжи и подлостям первый,
ты бы выиграл, Век Двадцатый.
Усмехается Век Двадцать Первый.
Если б были чемпионаты,
кто по подвигам первый, —
нет нам равных, мой Век Двадцатый!..
Безмолвствует Двадцать Первый.

Dịch

Nếu có cuộc thi vô địch
Sự giết người, thế kỷ nào xếp nhất
Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi
Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười
Nếu có cuộc thi vô địch
Sự giả dối đê hèn, thế kỷ nào xếp nhất
Thắng cuộc chắc là thế kỷ hai mươi
Thế kỷ hai mốt mỉa mai cười
Nếu có cuộc thi vô địch
Thế kỷ nào đứng đầu về kỳ tích
Thế kỷ hai mươi của tôi chẳng thế kỷ nào bằng
Thế kỷ hai mốt lặng câm

Thư gửi Roberto Obregon Morales 

Приглaшaю тебя, Обрегон.
Во Влaдимир торжественный съездим,
высоту его обретем,
мой зaдумчивый Обрегон,
обожaющий aперкот,
революцию и поэзию!
Ты из Мексики мне писaл,
что мои переводы осилил,
что нa сердце твоем печaль,
и просил приглaсить в Россию.
Где березa в полях пустых
сбросит листья себе под ноги,
вся прозрaчнaя, кaк бутыль,
нa червонном круглом подносе.
Приглaшaю тебя, Обрегон,
но ты выбрaл иные гости,
тебе мaшут с иных берегов
Лоркa, Лермонтов, Мaяковский.
И еще один, синеок,
подписaл тебе приглaшенье,
через лоб ему, кaк венок,
нaдевaли петлю нaшейную.
Не пaрнaсские небожители
ждут тебя, коренaстый горнист,-
гениaльные нaрушители
полицейских, мирских грaниц.
Приглaшaю тебя, Обрегон.
Приглaшение опоздaло.
Ты зaстрелен в упор стрелком
У проклятой погрaнзaстaвы.

Dịch

Tôi mời anh, Ôbrêgôn –
Chúng ta sẽ đi thăm
Thành phố cổ kính Vladimir
Ta sẽ ngự trên đỉnh cao,
hỡi anh Ôbrêgôn suy tư
Thích đánh bốc, thơ ca và cách mạng!
Từ Mêhicô anh viết cho tôi
Rằng cuối cùng anh hiểu được những bài thơ tôi dịch
Anh đang buồn
Và sung sướng được mời đến quê tôi
Với nước Nga, cây bạch dương trên cánh đồng trống trải
Rũ lá dưới chân mình
Trong sáng như một cái bình
Trên nền màu vàng một cái mâm tròn trịa
Tôi mời anh, Ôbrêgôn
Nhưng anh lại nhận những lời mời người khác
Từ những bến bờ xa lạ gọi anh
Lorca, Lermontov, Mayakovsky
Và một người khác nữa có đôi mắt xanh
Đã ký giấy gọi anh
Như một vòng nguyệt quế
Cái dây thòng lọng treo qua cổ
Dáng vóc thấp lùn
Những người chờ anh
Không phải là những kẻ được tuyển chọn trên đỉnh Thi Sơn
Mà là những kẻ quấy rối ngông cuồng
Trên các biên cương thế giới
Tôi mời anh, Ôbrêgôn
Nhưng lời mời tôi chậm rồi, không kịp lúc
Một tên lính gác Goatêmala
Đã bắn anh ngã gục

Xưởng thủy tinh Стеклозавод

Сидят три девы-стеклодувши
с шестами, полыми внутри.
Их выдуваемые души
горят, как бычьи пузыри.

Душа имеет форму шара,
имеет форму самовара.
Душа – абстракт. Но в смысле формы
она дает любую фору!

Марине бы опохмелиться,
но на губах ее горит
душа пунцовая, как птица,
которая не улетит!

Нинель ушла от моториста.
Душа высвобождает грудь,
вся в предвкушенье материнства,
чтоб накормить или вздохнуть.

Уста Фаины из всех алгебр
с трудом две буквы назовут,
но с уст ее абстрактный ангел
отряхивает изумруд!

Дай дуну в дудку, постараюсь.
Дай гостю душу показать.
Моя душа не состоялась,
из формы вырвалась опять.

В век Скайлэба и Байконура
смешна кустарность ремесла.
О чем, Марина, ты вздохнула?
И красный ландыш родился.

Уходят люди и эпохи,
но на прилавках хрусталя
стоят их крохотные вздохи
по три рубля, по два рубля…

О чем, Марина, ты вздохнула?
Не знаю. Тело упорхнуло.
Душа, плененная в стекле,
стенает на моем столе.

Dịch

Ba cô thợ thủy tinh
Với những ống dài rỗng
Những linh hồn được thổi phồng lên
Cháy như những bong bóng
Linh hồn có hình quả cầu
Có hình ấm xa mô va
Linh hồn hình tượng – Nhưng ở đây, về hình thái
Linh hồn hiến dâng mọi của cải
Marina say sưa
Nhưng môi cô đang cháy

Một linh hồn sáng tươi như con chim
Không bay đi khỏi
Ninen, cái máy nổ vừa rời
Linh hồn thoát ra từ ngực trẻ
Toàn thân cô như đón chào tình mẹ
Để nuôi con hay để hít thở khí trời
Hơi thở Phaina từ môn đại số
Gọi lên được ba con chữ đã thấy khó khăn
Nhưng từ miệng cô một thiên thần trừu tượng
Bật ra biếc xanh
Hãy cho tôi thổi vào ống sáo
Để khoe linh hồn với khách
Nhưng linh hồn tôi thổi không thành

Tuột ra khỏi hình thức
Trong kỷ nguyên chinh phục vũ trụ
Cái nghề thủ công thật buồn cười
Marina, sao em chỉ thở dài làm vậy
Mà sinh ra một bông hoa đỏ tươi?
Đang rời khỏi nơi đây những con người và thời đại
Nhưng trên quầy hàng pha lê
Những hơi thở nhọc nhằn của các cô đứng đó
Đôi ba rúp, tính theo bảng giá
Marina, sao mà em thở dài làm vậy?
Thân thể bỗng bay lên
Linh hồn nhập vào thủy tinh
Trên bàn anh đổ bóng

Chùm thơ dịch Andrey Andreevich Voznhesenski của nhà thơ Tế Hanh thật đặc sắc và độc đáo. Qua bài viết chúng ta thêm phần ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa cùng sự nhiệt huyết, tận tụy với văn học của ông.