Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, thơ Tế Hanh thể hiện là một giọng điệu dung dị, khiêm nhường nhưng chứa chan những cảm xúc và tình cảm mãnh liệt. Thơ ông luôn biết cách để lại chất riêng trong lòng bạn đọc yêu thơ. Ông cũng như nhiều nhà thơ khác ngoài làm thơ ông còn là một dịch giả vang danh được nhiều người biết đến và yêu thích.

Quand ils agrafent leur manteau
Un vent froid passe dans nos salles
Quand ils bouclent leur ceinturon
Tintent les clés des nos prisons
Quand ils ont claqué les talons
Nos yeux se baissent sur la honte
Il n’est de pur entre eux et nous
Que cette main qui les menace

Dịch

Khi chúng nó cài áo choàng
Gió lạnh ùa vào phòng
Khi chúng buộc thắt lưng
Khoá ngục kêu lủng lẳng
Khi chúng quay gót đi
ta cúi nhìn xấu hổ
Cái trong sạch giữa ta và chúng
là bàn tay trừng trị chúng mà thôi

Chỉ có lặng im Il n’y avait que le silence

Il n’y avait que le silence
Derrière chaque mot volé
La route expirait dans les pierres
Entre les murs écroulés
Et pourtant le dernier poète
Tendait l’oreille vers la mer
Et cherchait encore à saisir
L’insaisissable oiseau de la parole.

Dịch

Chỉ có lặng im
Sau từng tiếng mất đi
Con đường lẩn trong đá
Giữa những tường đổ nát
Nhưng nhà thơ cuối cùng
Lắng nghe tiếng biển gọi
Và tìm cách nắm lại
Con chim của tiếng nói đã bay đi

Gió Le vent

Nous aimions autrefois le vent porteur de feuilles,
il gonflait vers nos fronts les parfums de l’été,
il était une main qui disperse ou recueille
d’accord avec notre vie et notre volonté.
Maintenant il ne sait que siffler aux serrures
glaçant comme un couteau le cou des prisonniers
et refoulant les cris dans les pauvres figures
pour nourrir le silence et la nuit des cités.
Ah! De tant de douleur dominée, tout à coup
la bouche sent monter le sel noir et le sang;
mais vous qui retenez l’espoir entre vos dents
le regard agrandi par l’aurore future,
pardonnez à tous ceux qui parleront de vous!
Les mots que vous n’avez pas dits sous la torture
par la voix des vivants se répandent en haine ,
une vague de plus pour chaque homme qui meurt
s’échappe et descendant à travers les barreaux
va grossir lentement les nappes souterraines
qui feront sauter l’ombre et le mur des tombeaux.
Et c’est le même vent qui cogne à nos prisons,
le vent qui déchira les feuilles de l’amour,
c’est lui qui coule en nous ce fleuve de clameurs
et garde le secret de toutes nos saisons.
Il reviendra demain s’enrouler pour toujours
dans les cheveux de l’eau sur nos mains délivrées,
dispersant le brouillard des fantômes du jour,
quand hurleront de joie les hautes cheminées
-quand monteront dans l’air tranquille nos fumées

Dịch

Xưa ta yêu cơn gió rung cành lá
phồng trán ta với hương vị mùa hè
như bàn tay phát đi hay hứng lấy
ăn khớp với đời và nghị lực của ta
Giờ gió chỉ thổi qua ổ khoá
lạnh như lưỡi dao trên cổ người tù
dồn tiếng kêu trên khuôn mặt đau khổ
để nuôi lặng im và đêm tối âm u
Ôi bao nỗi đau nén lại bỗng nghe
máu trong mồm trào lên vị mặn
Hỡi các anh đã giữ nỗi đau trong miệng
Mắt mở to vì ánh vọng ngày mai
hãy tha thứ cho những ai nói đến các bạn
Những tiếng các bạn không nói trong khảo tra
Qua người sống sẽ lan thành uất hận
thoát khỏi tràn đi qua song sắt
sẽ làm to thêm mạch nước ngấm ngầm
làm nảy tung nấm mồ của bóng đêm tăm
Và vẫn cơn gió ấy chạm vào tù ngục
Cơn gió xé trang giấy mối tình ta
Cơn gió chảy trong ta như suối giục
Giữ cho ta bí mật những mùa qua
Gió sẽ lại quấn vào mãi mãi
Như tóc kia trên những bàn tay cởi trói
Quét đi sương mờ những bóng ma
đầy nỗi vui những bếp lửa trong nhà
khi khói từ bếp lửa bay ra

Ôi cái nước tên là nước Pháp

O pays nommé France
En tombeau transformé,
Signe de l’espérance
Aux ténèbres jeté,
O misère qui pense,
Vrais visages baissés
Dans un même silence
Vous vous reconnaissez.
On arrache la guerre
Et l’orgueil et les blés
A tes bras désolés.
Mais déjà ta colère
Et ta force première
Rechargent les cités.

Dịch

Ôi cái nước tên là nước Pháp
Đã trở thành nấm mồ
Như hy vọng bị ném
Trong bóng đêm hư vô
Ôi đau khổ nghĩ suy
Khuôn mặt thật cúi xuống
Cùng một phút lặng thinh
Các anh nhìn lại mình
Chúng giật khỏi tay ta
Hỡi quê hương đau khổ
Bông lúa và lòng tin
Nhưng mà cơn phẫn nộ
Và sức mạnh y nguyên
Giúp ta xây dựng lại

Tình yêu Любовь

Ты жива,
Ты жива!
Не сожгли тебя пламень и лава,
Не засыпало пеплом, а только задело едва
Ты жива,
Как трава,
Увядать не имевшая права;
Будешь ты и в снегах
Зелена и поздней покрова.
И еще над могилой моей
Ты взойдешь, как посмертная слава.
И не будет меня —
Ты останешься вечно жива.
Говори не слова,
А в ответ лишь кивай величаво —
Улыбнись и кивни,
Чтоб замолкла пустая молва.
Ты жива,
Ты права,
Ты отрада моя и отрава,
Каждый час на земле —
Это час твоего торжества

Dịch

Em vẫn sống
Em vẫn sống!
Không lửa nào đốt được em
Em vẫn sống
Như cỏ không có quyền phai
Em sẽ còn xanh dưới tuyết
Và còn dai hơn cỏ biếc
Trên mộ anh em sẽ đứng vươn lên
Và anh đã vĩnh biệt
Em vẫn sống đời đời
Đừng nói em ơi
Đừng trả lời, chỉ cần
Em gật đầu đồng ý
Em cười đi
Hãy dừng lại những bài diễn văn vô lý
Em vẫn sống
Em là sự công bình
Em là niềm an ủi và sự huỷ hoại của anh
Mỗi giờ trên trái đất
Là giờ chiến thắng của em

Bác Hồ 

Người vào cửa vẫn lặng im
Hỏi han thân mật, giống in những hình
Dấu thầm khi chửa hoà bình
Đêm đêm soi ảnh thấy mình ở trong
Người cầm hai đoá hoa hồng
Tựa như những đoá ta trồng vườn hoa
Hỏi thăm tin tức chúng ta
Hiểu dân tộc Pháp hơn là bạn, tôi
Tôi như chim trắng trước Người
Chim lành thợ mỏ chăm nuôi mái hè
Bay cùng xứ của Thorez
Tôi yêu, tôi khổ vì quê hương mình
Toàn dân đã chặn chiến tranh
Với ta Người tặng tấm tình, và hoa

Chín viên đạn Neuf balles

A Jean-Pierre M
(16 ans)
Neuf balles dans mon chargeur
Pour venger tous mes frères
Ça fait mal de tuer
C’est la première fois
Sept balles dans mon chargeur
C’était si simple
L’homme qui tirait l’autre nuit
C’était moi

Dịch

Gửi Jăng Pie M
(16 tuổi)
Chín viên đạn súng tôi
Rửa thù cho bè bạn
Giết người tôi đâu muốn
Lần đầu trong đời tôi
Bảy viên đạn súng tôi
Thật là giản dị
Người nổ súng đêm ấy
Là tôi

Thông điệp

Bằng mắt hay bằng tai không người nào quên được
Ôi thành phố đau thương đen xém mặt mày
Giữa đổ nát của thời gian người lớn lên trong trí nhớ
Của những người mai sau, tên người thành dã sử
Các anh hãy nhìn những hố chôn trên đất hoang, trong lò lửa
Trên cánh đồng giá lạnh một trời sắt giăng ngang
Dọc con đường dằng dặc những cột trụ đầy tuyết hàng hàng
Như những pháo đài tiếng quạ kêu hoang rợ
Ngoài thành phố một vùng đầy gió thét
Bão thổi vào những dấu hiệu và trong những hố bịt bùng
Những bãi cỏ quỳ mọp kề nhau trên cánh đồng
Giống cái lưng còm áo tả tơi đầy tuyết
Tôi còn thấy họ hôm nay hai bàn tay đào hố
Những bàn tay khác lấp đi, trước lúc thân hình
Giá lạnh, tuyết sẽ từ từ trộn lẫn
Với những mô đất và sa mạc sẽ lạnh tanh
Lò lửa đã quét sạch những con đường, những nhà nghèo khổ
Những cánh đồng cháy sau mùa tuyết phủ dần dần
Đây cái chết. Lửa đã qua: bây giờ sạch ráo
Những ngọn lửa quét đi mau hơn cả tử thần
Hỡi thành phố hy sinh, từ biệt nhé! Ngươi bay lên
Trên cánh lửa và chúng ta sẽ cùng gặp gỡ
Một lần nữa giữa giấc chiêm bao ấp ủ
Như lửa kia. Ta từ chối những lời mơn
Ta không quên cái nhà buồn teo và các em bé
Và không quên những tường trắng sở nuôi trẻ mồ côi
Những ô tô bọc sắt gầm gừ trong sân lặng lẽ
Khi đến giờ những khẩu hiệu như vũ khí rít từng hồi
Những cột trụ cháy vút qua. Trăm dặm ngoài xa
Thành phố tuyết mái nhà màu vàng kết đầy bóng quạ
Một chuyến tàu đi, một cánh cửa mở, và ánh lửa cháy nhà
Chiếu thình lình vào những tấm gương ngậm giá
Trăm dặm. Trăm cột trụ. Không hề nghỉ trong thời gian trong không gian
Họ lắng nghe đêm khuya những chuyện tàn sát dã man
Họ làm thinh bên bàn, không gì phá nổi bức tường im lặng
Họ chỉ thấy bóng đêm, chỉ nghe quanh mình im lặng

Bình minh nhuốm L’aube point

L’aube point et le paysage
Est fait à traits de sang, de vent,
De silence et d’orages pâles.

Le chant d’une belle voix vire
Sans fin au-dessus des collines
Tous liens rompus — ah comment vivre?

Ma demeure est un lieu de givre,
Il vente à mort – mais tu murmures:
Finisse seulement l’exil;

«La menthe nouvelle a fleuri,
Le figuier a donné ses fruits,
Finisse seulement le deuil.»

Au temps des supplices, toi seule
Fille de lavande au cœur sombre.
Toi seule peux chanter ainsi.

Dịch

Bình minh nhuốm và cảnh vật
Như phết bằng máu, bằng lặng im
Bằng gió và cơn giông tái nhạt
Một giọng trong như tiếng hát chơi vơi
Không ngừng lượn bay trên đồi núi
Đầy lòng đứt rồi – sống sao hỡi trời!
Nơi ta ở là nơi băng giá trải
Gió điếng người – nhưng em thầm cả:
“Phải, trước hết, không còn đày ải
Cây bạc hà mới đã trổ hoa
Cây mơ đã sinh sôi những trái
Phải, trước hết, không còn tăng tốc”
Thời buổi nhục hình riêng em thôi
Cô gái cỏ hương lòng u uất
Riêng em có thể hát nên lời

Một chuyện biệt li

Người đàn ông nói với người đàn bà anh yêu em
Và như thế nào?
Như thể anh siết chặt trong bàn tay
Trái tim anh, khác nào mảnh kiếng vỡ
Đâm chảy máu ngón tay anh khi bóp nát điên cuồng.
Người đàn ông nói với người đàn bà anh yêu em
Và như thế nào?
Với cái sâu thẳm của những cây số
Với cái mênh mông của những cây số
Trăm phần trăm, ngàn phần trăm, muôn vạn phần trăm.
Người đàn bà nói với người đàn ông:
Em nhìn với môi em, với đầu em và tim em
Với yêu thương, với hãi hùng, em nghiêng
Xuống môi anh, xuống tim anh, xuống đầu anh,
Và cái em nói bây giờ
Là em học được của anh
Như tiếng thì thầm trong bóng tối.
Và em biết hôm nay trái đất như một bà mẹ mặt sáng nắng
Đang cho bú đứa con đẹp nhất của bà.
Nhưng biết làm sao?
Tóc em đã quấn vào ngón tay cái chết
Và em không thể rứt đầu em ra
Anh phải đi mắt anh nhìn vào mặt đứa con mới đẻ
Anh phải đi, anh phải bỏ em.
Người đàn bà lặng im
Hai người hôn nhau
Trên đất một quyển sách rơi
Một cánh cửa sổ khép lại
Và như thế họ xa nhau.

Đường ra mặt trận Дорога на фронт

…Мы шли на фронт по улицам знакомым,
припоминали каждую, как сон:
вот палисад отеческого дома,
здесь жил, шумя, огромный добрый клен.
Он в форточки тянулся к нам весною,
прохладный, глянцевитый поутру.
Но этой темной ледяной зимою
и ты погиб, зеленый шумный друг.
Зияют окна вымершего дома
Гнездо мое, что сделали с тобой!
Разбиты стены старого райкома,
его крылечко с кимовской звездой.
Я шла на фронт сквозь детство — той дорогой,
которой в школу бегала давно.
Я шла сквозь юность,
сквозь ее тревогу,
сквозь счастие свое — перед войной.
Я шла сквозь хмурое людское горе —
пожарища,
развалины,
гробы…
Сквозь новый,
только возникавший город,
где здания прекрасны и грубы.
Я шла сквозь жизнь, сведя до боли пальцы.
Твердил мне путь давнишний и прямой:
«Иди. Не береги себя. Не сжалься,
не плачь, не умиляйся над собой».
И вот — река,
лачуги,
ветер жесткий,
челны рыбачьи, дымный горизонт,
землянка у газетного киоска —
наш
ленинградский

Да. Знаю. Всё, что с детства в нас горело,
всё, что в душе болит, поет, живет, —
всё шло к тебе,
торжественная зрелость,
на этот фронт у городских ворот.
Ты нелегка — я это тоже знаю,
но всё равно — пути другого нет.
Благодарю ж тебя, благословляю,
жестокий мой,
короткий мой расцвет,
за то, что я сильнее, и спокойней,
и терпеливей стала во сто крат
и всею жизнью защищать достойна
великий город жизни — Ленинград.

Dịch

Chúng tôi ra mặt trận theo những đường phố quen thuộc
Nhớ đến mỗi con đường như một giấc chiêm bao
Đây hàng giậu của mái nhà tổ phụ
Đây, trước kia, có cây dương to lớn lá rì rào.
Xuân khi ấy, cây vươn tới chúng tôi qua cửa sổ
Buổi sớm mai, óng ánh, mát tươi
Nhưng đông này lạnh lùng u tối
Bạn xanh ơi, bạn cũng chết rồi.
Những cửa sổ ngôi nhà tàn đều biết
Tổ ấm của ta đã bị thế nào
Trụ sở Thanh niên vách tường phá vỡ
Cùng mái nhà trên nóc có ngôi sao.
Tôi ra mặt trận qua tuổi nhỏ trong lành
Trên con đường ngày xưa chạy rong đi học.
Tôi đi qua tuổi xanh tôi trằn trọc
Đi qua hạnh phúc tôi trước chiến tranh.
Tôi đi qua nỗi âu sầu bao kẻ
Cảnh điêu tàn, nhà cháy, mồ hoang
Qua thành phố mới, còn dựng nửa chừng
Với những căn nhà đẹp, khoẻ.
Tôi đi qua cuộc đời, vặn ngón tay đến đau chói
Con đường xưa thẳng, nói với tâm tình:
Đi đi… Đừng chú ý đến mình, đừng thương hại
Đừng khóc than, đừng bi luỵ vì mình.
Và đây con sông, gió dữ nếp nhà siêu,
Những thuyền câu, chân trời sương ảo não.
Con đường hào bên quầy bán báo,
Mặt trận Lêningrat vững vàng
Vâng. Tôi biết – cái gì từ tuổi thơ nung nấu
Cái gì sống vui, ca hát, đau đớn hồn này
Đều rụng hết, ôi sự chín mùi chín thắng,
Trên mặt trận này, đầu thành phố này đây.
Khó khăn đấy – cái này, ta đã biết
Nhưng chẳng hề gì, không có lối nào hơn.
Ta ca ngợi vậy, ta xin cám ơn
Sự sớm trưởng thành thật là khốc liệt.
Giờ tôi càng mạnh hơn, càng bình tĩnh
Và bền gan chịu đựng gấp trăm lần
Chính vì thế mà đáng đem cả đời tôi ra bảo vệ
Thành phố to lớn của cuộc đời, Lêningrat mến thân.

Thần tiên Le sylphe

Ni vu ni connu
Je suis le parfum
Vivant et défunt
Dans le vent venu!
Ni vu ni connu
Hasard ou génie?
A peine venu
La tâche est finie!
Ni lu ni compris?
Aux meilleurs esprits
Que d’erreurs promises!
Ni vu ni connu
Le temps d’un sein nu
Entre deux chemises!

Dịch

Không thấy không biết
Tôi là làn hương
Còn sống, đã chết
Trong làn gió vương
Không thấy không biết
Ngẫu nhiên, thiên tài
Một thoáng đã hết
Nhiệm vụ xong rồi.
Không đọc không hiểu
Bao trí siêu phàm
Có thể sai lầm
Không thấy không biết
Thời gian vú bày
Giữa hai áo thay.

Trước ngày lễ lớn

Đây tấm bản đồ xưa đầy dấu vết chiến tranh
Hình ảnh núi An-pơ, những đầm lầy nước Phổ
Những lục địa trên hoàn cầu, những biển sáng long lanh
Tiếng vũ khí ca vang, tiếng dầu trong lửa nổ
Anh hãy nhìn. Anh hãy để trên bàn
Hay trên giá mảnh giấy vuông đầy lỗ rách
Đây những mũi tên đã diệt giặc hung tàn
Anh còn nhớ ? – Chính anh bốn năm ròng đã vạch
Ấy quá khứ. Nay thời gian cất cánh
Hãy lắng nghe tiếng vỗ trên đầu ta
Bộ quân phục nằm yên trong tủ kính
Nhưng tấm bản đồ xưa ta hãy lấy ra
Trước mắt ta đây Ban-căng trong mây huyền ảo
Bão trên Ban-tích và trời rộng mênh mông
Trải không gian như tấm khăn bàn. Bày ra như cốc rượu
Sương khói mùa đông, pha lê những sớm mùa xuân
…Mát-xcơ-va suốt đêm không ngủ. Lo lắng, dịu dàng
Chân trời mở rộng như không còn trong phố
Nơi xa kia, xa nữa, ngoài những con đường
Tuổi thanh niên đứng lên, sắp thành đội ngũ
Tuổi thanh niên bất diệt – Đến ngày mai
Các con cháu theo gương cha ông kế tiếp
Tấm bản đồ nhắc lại biết bao lời
Cuộc đời anh kể thêm nhiều sự việc
Sức mạnh tuổi thanh niên! Giục ta xông ra trận
Trong lửa không thiêu, đáy biển không chìm
Không phải của riêng ai – Hỡi tuổi thanh niên vô tận!
Chúng ta còn yêu mãi tuổi thanh niên.

Hỡi số phận, mở trước tôi…

Sors, nyiss nekem tért, hadd tehessek
Az emberiségért valamit!
Ne hamvadjon ki haszon nélkűl e
Nemes láng, amely úgy hevit.
Láng van szivemben, égbül-eredt láng,
Fölforraló minden csepp vért;
Minden szív-ütésem egy imádság
A világ boldogságaért.
Oh vajha nemcsak üres beszéddel,
De tettel mondhatnám el ezt!
Legyen bár tettemért a díj egy
Uj Golgotán egy új kereszt!
Meghalni az emberiség javáért!
Mily boldog, milyen szép halál!
Szebb s boldogítóbb egy hasztalan élet
Minden kéjmámorainál.
Mondd, sors, oh mondd ki, hogy így halok meg,
Ily szentül!… s én elkészítem
Saját kezemmel azon keresztfát,
Amelyre fölfeszíttetem.

Dịch

Hỡi số phận, mở trước tôi trời rộng
Để cho tôi giúp ích được loài người
Để hăng say nung nấu trong tôi
Không phải lụi tàn vô ích

Ngọn lửa nơi tôi như từ trời cao đến
Trong huyết quản người tôi mỗi giọt máu sôi lên
Mỗi tiếng đập con tim là một lời nguyền
Cho loài người hạnh phúc

Tôi muốn tỏ ra bằng hành động
Những gì không thể tỏ bằng lời
Dẫu việc làm có thể dẫn đời tôi
Đến hy sinh tính mạng

Chết cho bao người được sống
Sung sướng thay, cái chết ấy đẹp thay
Hơn biết mấy những cuộc đời vô dụng
Giữa khoái lạc mê say

Số phận ơi, nói giùm tôi sẽ có
Cái chết những thánh nhân và những anh hào
Với tay tôi, tôi sẽ vội đào
Nấm mồ chôn tôi ở đó

Tháng mười một Novembre

Un filet de sang
Aux lèvres de l’aube
Le temps qui se sauve
La nuit qui descend
Le vent sur la terre
Les mains sur les haches
Le ciel qui se cache
Les cœurs grands ouverts
L’attente, l’attente
Le mal plus profond
La plaie plus au fond
Plus creuse, géante
La mer à combler
La saline à boire
La haine, la gloire
A désassembler
Les fruits de l’hiver
Le froid qui les brûle
Le feu dans nos rues
Le fer et l’enfer
Le mal de Novembre
Quel homme dira
Qu’il fut dans nos bras
Si dur et si tendre

Dịch

Một dòng máu đỏ
Trên môi bình minh
Thời gian vô tình
Đêm xuống rồi đó
Gió trên mặt đất
Lưỡi búa dưới tay
Trời như chở che
Trái tim há hốc
Đợi chờ đợi chờ
Nỗi đau sâu thẳm
Vết thương càng thấm
Mở ra càng to
Biển kia phải lấp
Muối mặn uống vào
Vinh quang căm thù
Chờ ta phân biệt
Những trái mùa đông
Lạnh làm khô lại
Sắt và địa ngục
Lửa trên đường đi
Nỗi đau tháng Mười một
Ai sẽ nói ra
Ở trong tay ta
Cứng và mềm lại

Việc làm đẹp Le beau travail

J’ai chanté mes amours sur de grands chevaux noirs.
La réforme a passé et mes amours, on me les a prises
Elles se baladent quelque part là-bas
Dans un monde lointain et je ne sais plus d’elles
Rien. Il paraît qu’il pleut, qu’elles ont froid.
J’ai chanté mes amis en ouvrant grands les bras.
La charrette à passé, et mes amis, ils sont en fourrière
Dans une tour on les a mis, par-ci, par-là,
Des chiens, quoi. Ils avaient la rage d’aimer leurs frères.
J’ai chanté mon travail en m’agrippant à lui.
La police m’a dit: un poète, une affaire
On en a besoin dans les mines. J’y suis.
Mais mes chevaux noirs m’ont suivi
Mes bras battus s’ouvrent encore
Et mon travail n’est pas fini

Dịch

Tôi đã ca ngợi tình yêu trên những con ngựa lớn
Cuộc cải cách và tình yêu tôi đã mất
Ở một nơi xa xôi
Tôi không biết ở đâu
Hình như trời mưa và rét
Tôi đã ca ngợi tình bạn mở rộng hai tay
Một chuyến xe qua bắt các bạn tôi đi
Chúng nhốt trong ngục tù nơi này nơi nọ
Chúng bảo: “Quý bạn đến thế cơ! Đồ chó!”
Tôi ca ngợi việc làm và đầy tin tưởng
Cảnh sát bảo: nhà thơ, một vấn đề
Cần đến nó nơi hầm mỏ và tôi đến
Những con ngựa vẫn theo tôi
Tay tôi mở rộng đón cuộc đời
Và việc làm tôi tiếp tục

Bài thơ cuối Le dernier poème

J’ai rêvé tellement fort de toi,
J’ai tellement marché, tellement parlé,
Tellement aimé ton ombre,
Qu’il ne me reste plus rien de toi.
Il me reste d’être l’ombre parmi les ombres
D’être cent fois plus ombre que l’ombre,
D’être l’ombre qui viendra et reviendra
Dans ta vie ensoleillée.

Dịch

Anh nghĩ đến em nhiều đến nỗi
Anh đi, anh nói
Anh yêu cái bóng em nhiều đến nỗi
Không còn chút gì nữa ở trong anh
Anh chỉ còn là cái bóng trong bao cái bóng
Trăm lần bóng hơn cả bóng
Cái bóng đi về
trên cuộc đời sáng nắng của em.

“Phàm những cuộc đời kỳ lạ”

Все живое особой метой
Отмечается с ранних пор.
Если не был бы я поэтом,
То, наверно, был мошенник и вор.
Худощавый и низкорослый,
Средь мальчишек всегда герой,
Часто, часто с разбитым носом
Приходил я к себе домой.
И навстречу испуганной маме
Я цедил сквозь кровавый рот:
“Ничего! Я споткнулся о камень,
Это к завтраму все заживет”.
И теперь вот, когда простыла
Этих дней кипятковая вязь,
Беспокойная, дерзкая сила
На поэмы мои пролилась.
Золотая словесная груда,
И над каждой строкой без конца
Отражается прежняя удаль
Забияки и сорванца.
Как тогда, я отважный и гордый,
Только новью мой брызжет шаг…
Если раньше мне били в морду,
То теперь вся в крови душа.
И уже говорю я не маме,
А в чужой и хохочущий сброд:
“Ничего! Я споткнулся о камень,
Это к завтраму все заживет”

Dịch

Người nào sống khác thường
Số phận định từ trước
Nếu tôi không nhà thơ
Tôi đã thành trộm cướp
Gầy gò và bé nhỏ
Điều khiển bọn trẻ ranh
Tôi về nhà là thấy
Xây xát cả thân mình
Mẹ tôi kêu hoảng hốt
Tôi nói, máu đầy môi:
“Con vấp vào hòn đá
Ngày mai sẽ lành thôi”
Bây giờ thì khác trước
Tuổi nghịch ngợm qua rồi
Một sức sống man dại
Tràn trề trong thơ tôi
Chữ hiện lên hỗn loạn
Trong mỗi một câu thơ
Như phản ánh phá phách
Của chú bé ngày xưa
Tàn bạo và kiêu hãnh
Dáng điệu mới luôn luôn
Xưa máu đầy trong miệng
Nay máu đầy trong hồn
Tôi không nói với mẹ
Mà với cả mọi người
“Tôi vấp vào hòn đá
Ngày mai sẽ lành thôi”.

Con chim của hoang tàn L’oiseau des ruines

L’oiseau des ruines se sépare de la mort,
Il nidifie dans la pierre grise au soleil,
Il a franchi toute douleur, toute mémoire,
Il ne sait plus ce qu’est demain dans l’éternel

Dịch

Con chim của hoang tàn vươn ra từ cái chết
Nó làm tổ trong đá xám dưới mặt trời
Nó đã vượt qua tất cả khổ đau, hoài niệm
Không còn biết nữa thế nào là ngày mai trong vĩnh viễn

Tế Hanh đã dành không ít tâm huyết của mình vào trong những thi phẩm dịch của ông. Tất cả đã chứng minh được niềm đam mê của ông đối với những văn học nước ngoài đặc sắc. Ông thật khiến cho người ta phải trầm trồ trước những trang thơ đi cùng năm tháng của mình.