Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy là một trong những gương mặt nổi bật của nền văn học Trung Quốc. Chặng đường sự nghiệp của ông luôn gắn liền với thơ ca. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Vương Duy giỏi văn nghệ, ưa tiêu dao, nên tuy làm việc với triều đình nhưng vẫn thích nơi có cảnh quan yên tĩnh. Ông được gần vua, các cận thần và được quý trọng vì am hiểu văn chương nghệ thuật. Kho tàng thơ của ông luôn được bạn đọc đón nhận bởi chúng mang một giá trị sâu sắc. Hãy cùng tapchivannghe.com khám phá nhé!

Quá Cảm Hoá tự Đàm Hưng thượng nhân sơn viện 

暮持筇竹杖,
相待虎谿頭。
催客聞山響,
歸房逐水流。
野花叢發好,
谷鳥一聲幽。
夜坐空林寂,
松風直似秋。

Quá Cảm Hoá tự Đàm Hưng thượng nhân sơn viện

Mộ trì cung trúc trượng,
Tương đãi Hổ Khê đầu.
Thôi khách văn sơn hưởng,
Quy phòng trục thuỷ lưu.
Dã hoa tùng phát hảo,
Cốc điểu nhất thanh u.
Dạ toạ không lâm tịch,
Tùng phong trực tự thu.

Dịch nghĩa

Chiều cầm cây gậy tre
Đợi nhau ở Khe Hổ
Nghe tiếng vang từ trong núi như giục người
Men theo dòng nước đi về nhà
Hoa đồng nở rộ từng cụm đẹp
Chim hang cất tiếng quạnh buồn
Đêm ngồi nơi rừng vắng lặng
Gió thông nghe giống như mùa thu đang về
Cảm Hoá tự là một danh lam ở Lam Điền.

Quá Hương Tích tự 過香積寺

不知香積寺,
數里入雲峰。
古木無人徑,
深山何處鐘。
泉聲咽危石,
日色冷青松。
薄暮空潭曲,
安禪制毒龍。

Quá Hương Tích tự

Bất tri Hương Tích tự,
Sổ lý nhập vân phong.
Cổ mộc vô nhân kính,
Thâm sơn hà xứ chung.
Tuyền thanh yết nguy thạch,
Nhật sắc lãnh thanh tùng.
Bạc mộ không đàm khúc,
An thiền chế độc long.

Dịch nghĩa

Không biết chùa Hương Tích ở đâu?
Đi mấy dặm lên đến chỗ núi mây cao ngất.
Cây cổ thụ mọc um tùm không có vết đường tắt người qua lại.
Núi sâu, có tiếng chuông ở đâu ngân lên?
Tiếng nước suối đập vào gành đá nghe như bị nghẹn lại.
Sắc mặt trời có vẻ lạnh lẽo luồn qua lùm thông xanh.
Chiều hôm vắng vẻ trên khu đầm nước.
Muốn chế ngự con rồng độc ác thì phải qui y nơi cửa thiền.

Quá Lý Tiếp trạch 過李楫宅 • Qua nhà Lý Tiếp

閒門秋草色,
終日無車馬。
客來深巷中,
犬吠寒林下。
散髮時未簪,
道書行上把。
與我同心人,
樂道安貧者。
一罷宜城酌,
還歸洛陽社。

Quá Lý Tiếp trạch

Nhàn môn thu thảo sắc,
Chung nhật vô xa mã.
Khách lai thâm hạng trung,
Khuyển phệ hàn lâm hạ.
Tản phát thì vị trâm,
Đạo thư hành thượng bả.
Dữ ngã đồng tâm nhân,
Lạc đạo an bần giả.
Nhất bãi Nghi Thành chước,
Hoàn quy Lạc Dương xã.

Dịch nghĩa

Trước cửa nhàn nhã, màu sắc cỏ thu
Cả ngày không có xe, ngựa chạy qua
Khách đến thăm vào tận ngõ hẻm
Cho sủa đầu ngoài rừng lạnh lẽo
(Chủ nhà) xoã tóc chưa cài trâm
Tay cầm cuốn kinh sách đi ra chào
Cùng tôi là người bạn đồng tâm ý
Vui với đạo, an nhiên với cuộc sống bần hàn
Xong chén rượu Nghi Thành
Quay trở về xã Lạc Dương

Quá Thuỷ Hoàng mộ 過始皇墓

古墓成蒼嶺,
幽宮象紫臺。
星辰七曜隔,
河漢九泉開。
有海人寧渡,
無春雁不回。
更聞松韻切,
疑是大夫哀。

Quá Thuỷ Hoàng mộ

Cổ mộ thành thương lĩnh,
U cung tượng tử đài.
Tinh thần thất diệu cách,
Hà Hán cửu tuyền khai.
Hữu hải nhân trữ độ,
Vô xuân nhạn bất hồi.
Cánh văn tùng vận thiết,
Nghi thị đại phu ai.

Quá Thừa Như thiền sư Túc cư sĩ Tung khâu Lan Nhã 

無著天親弟與兄,
嵩丘蘭若一峰晴。
食隨鳴磬巢烏下,
行踏空林落葉聲。
迸水定侵香案濕,
雨花應共石床平。
深洞長松何所有,
儼然天竺古先生。

Quá Thừa Như thiền sư Túc cư sĩ Tung khâu Lan Nhã

Vô Trước, Thiên Thân đệ dữ huynh,
Tung khâu Lan Nhã nhất phong tình.
Thực tuỳ minh khánh sào ô hạ,
Hành đạp không lâm lạc diệp thanh.
Bính thuỷ định xâm hương án thấp,
Vũ hoa ưng cộng thạch sàng bình.
Thâm động trường tùng hà sở hữu,
Nghiễm nhiên Thiên Trúc cổ tiên sinh.

Quan lạp 觀獵 • Xem cuộc săn

風勁角弓鳴,
將軍獵渭城。
草枯鷹眼疾,
雪盡馬蹄輕。
忽過新豐市,
還歸細柳營。
迴看射鵰處,
千里暮雲平。

Quan lạp

Phong kính giác cung minh,
Tướng quân liệp Vị Thành.
Thảo khô ưng nhãn tật,
Tuyết tận mã đề khinh.
Hốt quá Tân Phong thị,
Hoàn quy Tế Liễu dinh.
Hồi khán xạ điêu xứ,
Thiên lý mộ vân bình.

Quy Tung Sơn tác 歸嵩山作 • Làm khi về Tung Sơn

清川帶長薄,
車馬去閑閑。
流水如有意,
暮禽相與還。
荒城臨古渡,
落日滿秋山。
迢遞嵩高下,
歸來且閉關。

Quy Tung Sơn tác

Thanh xuyên đới trường bạc,
Xa mã khứ nhàn nhàn.
Lưu thuỷ như hữu ý,
Mộ cầm tương dữ hoàn.
Hoang thành lâm cổ độ,
Lạc nhật mãn thu sơn.
Điều đệ Tung cao hạ,
Quy lai thả bế quan.

Dịch nghĩa

Sông xanh chảy quanh rừng cây cỏ rậm rì
Ngựa xe qua lại thong thả
Nước chảy như có tình ý
Chim buổi chiều cùng ta bay về
Thành hoang nhìn ra hướng bến đò cũ
Trời lặn đầy trên núi mùa thu
Xa xa dãy Tung Sơn cao thấp (chạy dài)
Về tới rồi chắc là đóng cửa

Quy Võng Xuyên tác 歸輞川作 • Làm khi về Võng Xuyên

谷口疏鐘動,
漁樵稍欲稀。
悠然遠山暮,
獨向白雲歸。
菱蔓弱難定,
楊花輕易飛。
東皐春草色,
惆悵掩柴扉。

Quy Võng Xuyên tác

Cốc khẩu sơ chung động,
Ngư tiều sảo dục hi.
Du nhiên viễn sơn mộ,
Ðộc hướng bạch vân quy.
Lăng mạn nhược nan định,
Dương hoa khinh dị phi.
Ðông cao xuân thảo sắc
Trù trướng yểm sài phi.

Sơn cư thu minh 山居秋暝 • Đêm thu ở núi

空山新雨後,
天氣晚來秋。
明月松間照,
清泉石上流。
竹喧歸浣女,
蓮動下漁舟。
隨意春芳歇,
王孫自可留。

Sơn cư thu minh

Không sơn tân vũ hậu,
Thiên khí vãn lai thu.
Minh nguyệt tùng gian chiếu,
Thanh tuyền thạch thượng lưu.
Trúc huyên quy hoán nữ,
Liên động há ngư chu.
Tuỳ ý xuân phương yết,
Vương tôn tự khả lưu.

Dịch nghĩa

Không không toà núi sau trận mưa
Thời tiết ban đêm đến đã là thu rồi
Trăng sáng chiếu qua đám cây tùng
Suối nước xanh chảy trên tảng đá
Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô giặt áo đi về
Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống
Tuỳ ý, hương xuân đã hết
Các vương tôn muốn ở lại thì tự tiện

Sơn cư tức sự 山居即事 • Tức sự ở núi

寂寞掩柴扉,
蒼茫對落暉。
鶴巢松樹遍,
人訪蓽門稀。
綠竹含新粉,
紅蓮落故衣。
渡頭煙火起,
處處采菱歸。

Sơn cư tức sự

Tịch mịch yểm sài phi,
Thương mang đối lạc huy.
Hạc sào tùng thụ biến,
Nhân phóng tất môn hy.
Lục trúc hàm tân phấn,
Hồng liên lạc cố y.
Độ đầu yên hoả khởi,
Xứ xứ thái lăng quy.

Dịch nghĩa

Trong cảnh tịch mịch khép cánh cổng gỗ
Bóng chiều đổ xuống mênh mang
Chim khách làm tổ đầy trên cây thông
Ít người đến thăm hỏi chiếc cổng gỗ
Tre non ngậm lớp phấn mới
Hoa sen đỏ để rơi rụng những cánh hồng
Nơi bến đò bắt đầu lên đèn
Nơi nơi người đi hái ấu trở về

Sơn thù du 山茱萸 • Hoa sơn thù du

朱實山下開,
清香寒更發。
幸與叢桂花,
窗前向秋月。

Sơn thù du

Châu thực sơn hạ khai,
Thanh hương lãnh cách phát.
Hạnh hữu tùng quế hoa,
Song tiền hướng thu nguyệt.

Dịch nghĩa

Châu báu như bày dưới núi
Hương thanh ngát, mát lạnh bay lên
Vui gặp gỡ những chùm hoa quế
Ở song cửa hướng ra ánh trăng mùa thu.

Sơn trung 山中 • Trong núi

荊谿白石出,
天寒紅葉稀。
山路元無雨,
空嵐濕人衣。

Sơn trung

Kinh khê bạch thạch xuất,
Thiên hàn hồng diệp hy.
Sơn lộ nguyên vô vũ,
Không thuý thấp nhân y.

Dịch nghĩa

Mặt trời mọc trên dòng suối hiểm trở
Trời lạnh, lá đỏ thưa thớt
Trên con đường núi không có mưa
Hơi núi làm ướt áo người

Sơn trung ký chư đệ muội 山中寄諸弟妹 

山中多法侶,
禪誦自為群。
城郭遙相望,
唯應見白雲。

Sơn trung ký chư đệ muội

Sơn trung đa pháp lữ,
Thiền tụng tự vi quần.
Thành quách dao tương vọng,
Duy ưng kiến bạch vân.

Sứ chí tái thượng 使至塞上 • Đi sứ miền biên tái

單車欲問邊,
屬國過居延。
征蓬出漢塞,
歸雁入胡天。
大漠孤煙直,
長河落日圓。
蕭關逢候騎,
都護在燕然。

Sứ chí tái thượng

Đơn xa dục vấn biên,
Thuộc quốc quá cư duyên.
Chinh bồng xuất Hán tái,
Quy nhạn nhập Hồ thiên.
Đại mạc cô yên trực,
Trường hà lạc nhật viên.
Tiêu quan phùng hậu kỵ,
Đô hộ tại Yên Nhiên.

Dịch nghĩa

Ngồi trên xe hỏi đường đi,
Thân làm quan ta đi tới biên thuỳ.
Ngọn cỏ bồng bay ra khỏi ải Hán,
Nhạn bay về vào trời Hồ.
Sa mạc mênh mông, ngọn khói bay thẳng lên trời,
Sông dài, mặt trời lặn tròn vo.
Ra tới ải Tiêu Quan, gặp lính cưỡi ngựa (đi trinh sát),
(Báo rằng) quan đô hộ đang ở Yên Nhiên.

Tảo thu sơn trung tác 早秋山中作 

無才不敢累明時,
思向東溪守故籬。
不厭尚平婚嫁早,
卻嫌陶令去官遲。
草堂蛩響臨秋急,
山裏蟬聲薄暮悲。
寂寞柴門人不到,
空林獨與白雲期。

Tảo thu sơn trung tác

Vô tài bất cảm luỵ minh thì,
Tư hướng Đông Khê thủ cố ly.
Bất yếm Thượng Bình hôn giá tảo,
Khước hiềm Đào lệnh khứ quan trì.
Thảo đường cung hưởng lâm thu cấp,
Sơn lý thiền thanh bạc mộ bi.
Tịch mịch sài môn nhân bất đáo,
Không lâm độc dữ bạch vân kỳ.

Dịch nghĩa

Không có tài không dám làm hư thời thịnh trị
Nghĩ đến khe nước phía đông, về ở giậu nhà cũ
Có ghét chi Thượng Bình lấy vợ gả chồng sớm cho con cái
Nhưng mà phàn nàn Đào Tiềm treo ấn từ quan trễ
Dế kêu vang trong đám cỏ thu về sao cấp thiết
Ve kêu trong núi chiều về bàng bạc sao bi lương
Cánh cửa tịch mịch không ai đến thăm
Trong rừng vắng chỉ hẹn được với đám mây trắng

Tảo xuân hành 早春行 • Bài hành xuân sớm

紫梅發初遍,
黃鳥歌猶澀。
誰家折楊女,
弄春如不及。
愛水看妝坐,
羞人映花立。
香畏風吹散,
衣愁路沾濕。
玉閨青門裏,
日落香車入。
游衍益相思,
含啼向彩帷。
憶君長入夢,
舊晚更生疑。
不及紅簷燕,
雙棲綠草時。

Tảo xuân hành

Tử mai phát sơ biến,
Hoàng điểu ca do sáp.
Thuỳ gia chiết dương nữ,
Lộng xuân như bất cập.
Ái thuỷ khan trang toạ,
Tu nhân ánh hoa lập.
Hương uý phong xuy tán,
Y sầu lộ triêm thấp.
Ngọc khuê thanh môn lý,
Nhật lạc hương xa nhập.
Du diễn ích tương tư,
Hàm đề hướng thái duy.
Ức quân trường nhập mộng,
Cựu vãn cánh sinh nghi,
Bất cập hồng thiềm yến,
Song thê lục thảo thì.

Dịch nghĩa

Mai tía đã bắt đầu ra lá khắp cây,
Giọng oanh vàng còn chát sít.
Con gái nhà ai bẻ cành dương liễu,
Làm như chưa kịp chơi xuân.
Thích ngắm vẻ mặt đã trang điểm phản chiếu trên mặt nước,
Người con gái e lệ đứng lộng lẫy bên hoa.
Hương thơm sợ gió làm bay mất,
Áo đẹp ngại nước trên đường làm ướt.
Phòng the sang trọng ở phía nam kinh thành,
Buổi chiều xe ngát hương thơm chạy vào.
Những cuộc đi chơi phóng túng càng làm nghĩ tới nhau,
Lời réo gọi hàm ý đó hướng về cửa sổ treo rèm nhiều màu.
Nhớ chàng trong giấc mộng dài,
Lại nghi ngờ lòng chàng trong buổi chiều cũ.
Không bằng chim yến dưới mái nhà ngói đỏ,
Một đôi đang cùng làm tổ trong lúc cỏ tươi xanh mượt.

Trên đây, chúng tôi đã dành tặng quý độc giả chùm thơ đặc sắc của nhà thơ vang danh Vương Duy. Qua bài viết trên chúng ta cảm nhận được những ý nghĩa sâu sắc cũng như một ngòi bút nổi bật của nền văn học Trung Quốc. cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!

Tagged: