Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy là một thi sĩ nổi danh cùng những tác phẩm lừng danh được mọi người đánh giá cao. Phong cách thơ ông phong phú và mới lạ. Tài thơ của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc miêu tả thiên nhiên tinh tế và đầy sống động. Ngôn ngữ thơ cô đọng và điêu luyện, phù hợp với những ý tứ sâu sắc, truyền cảm. Chính những điều đó đã góp phần lôi cuốn bạn đọc yêu thơ. Ngay bây giờ hãy cùng tapchivannghe.com cảm nhận nhé!

Khốc Ân Dao kỳ 1 哭殷遙其一 • Khóc bạn Ân Dao kỳ 1

送君返喪石樓山,
松柏蒼蒼賓馭還。
埋骨白雲長已矣,
空餘流水向人間。

Khốc Ân Dao kỳ 1

Tống quân phản táng Thạch lâu san,
Tùng bách thương thương tân ngự hoàn.
Mai cốt bạch vân trường dĩ hĩ,
Không dư lưu thuỷ hướng nhân gian.

Khốc Ân Dao kỳ 2 哭殷遙期二 • Khóc bạn Ân Dao kỳ 2

人生能幾何,
畢竟歸無形。
念君等為死,
萬亊傷人情。
慈母不及葬,
一女才十齡。
怏漭寒郊外,
蕭條聞哭聲。
浮雲為蒼茫,
飛鳥不能鳴。
行人何寂寞,
白日自淒清。
憶昔君在時,
問我學無生。
勸君苦不早,
令君無所成。
故人各有贈,
又不及生平。
負爾非一途,
痛哭返柴荊。

Khốc Ân Dao kỳ 2

Nhân sinh năng kỷ hà?
Tất cánh quy vô hình.
Niệm quân đẳng vi tử,
Vạn sự thương nhân tình.
Từ mẫu bất cập táng,
Nhất nữ tài thập linh.
Ưởng mãng hàn giao ngoại,
Tiêu điều văn khốc thanh!
Phù vân vi thương mang,
Phi điểu bất năng minh.
Hành nhân hà tịch mịch!
Bạch nhật tự thê thanh.
Ức tích quân tại thì,
Vấn ngã học vô sinh.
Khuyến quân khổ bất tảo,
Lịnh quân vô sở thành.
Cố nhân các hữu tặng,
Hựu bất cập sinh bình.
Phụ nhĩ phi nhất đồ,
Thống khốc phản sài kinh.

Khốc Mạnh Hạo Nhiên 哭孟浩然 • Khóc Mạnh Hạo Nhiên

故人不可見,
漢水日東流。
借問襄陽老,
江山空蔡州。

Khốc Mạnh Hạo Nhiên

Cố nhân bất khả kiến,
Hán thuỷ nhật đông lưu.
Tá vấn Tương Dương lão,
Giang sơn không Sái Châu.

Dịch nghĩa

Bạn thân nay không còn nữa,
Sông Hán vẫn chảy trong buồi chiều tà.
Xin hỏi con người sinh ra ở Tương Dương:
Vì sao lại bỏ Sái Châu mà đi?

Ký Sùng Phạm tăng 寄崇梵僧 • Gửi sư Sùng Phạm

崇梵僧,崇梵僧,
秋歸覆釜春不還。
落花啼鳥紛紛亂,
澗戶山窗寂寂閑。
峽裏誰知有人事,
郡中遙望空雲山。

Ký Sùng Phạm tăng

Sùng Phạm tăng, Sùng Phạm tăng,
Thu quy Phúc Phủ xuân bất hoàn.
Lạc hoa đề điểu phân phân loạn,
Giản hộ sơn song tịch tịch nhàn.
Hạp lý thuỳ tri hữu nhân sự,
Quận trung dao vọng không vân san.

Kỳ thượng biệt Triệu Tiên Chu 淇上別趙仙舟

相逢方一笑,
相送還成泣。
祖帳已傷離,
荒城復愁入。
天寒遠山淨,
日暮長河急。
解纜君已遙,
望君猶佇立。

Kỳ thượng biệt Triệu Tiên Chu

Tương phùng phương nhất tiếu,
Tương tống hoàn thành khấp.
Tổ trướng dĩ thương ly,
Hoang thành phục sầu nhập.
Thiên hàn viễn sơn tĩnh,
Nhật mộ trường hà cấp.
Giải lãm quân dĩ dao,
Vọng quân do tồn lập.

Dịch nghĩa

Gặp nhau vừa mới tươi cười một tiếng
Tiễn nhau đã thành ra khóc ròng
Nơi chia tay vốn đã thương cảm
Thành hoang lại phải buồn khổ trở về lại
Trời lạnh, núi xa xa yên tĩnh
Chiều về nước sông chảy xiết
Bạn đã nhổ neo đi xa rồi
Trông ngóng bạn còn đứng sững sờ ở đó

Kỳ thượng điền viên tức sự 淇上田園即事

屏居淇水上,
東野曠無山。
日隱桑柘外,
河明閭井間。
牧童望村去,
獵犬隨人還。
靜者亦何事,
荊扉乘晝關。

Kỳ thượng điền viên tức sự

Bình cư Kỳ thuỷ thượng,
Đông dã khoáng vô san.
Nhật ẩn tang giá ngoại,
Hà minh lư tỉnh gian.
Mục đồng vọng thôn khứ,
Lạp khuyển tuỳ nhân hoàn.
Tĩnh giả diệc hà sự,
Kinh phi thừa trú quan.

Dịch nghĩa

Sinh sống bình an ở thượng lưu sông Kỳ,
Nơi mà đồng bằng trải về hướng đông không có núi đồi.
Mặt trời ẩn hiện sau rặng cây dâu tằm,
Con sông lấp lánh xuyên cổng làng.
Cac mục đồng nhìn lại thôn xóm khi lùa thú ra đồng,
Ðàn chó săn theo chủ trở về.
Người nhàn cư có chuyện chi đâu mà làm,
Khép chặt cửa phên cỏ cả ngày để hưởng thanh nhàn.

Lạc Dương nữ nhi hành 洛陽女兒行

洛陽女兒對門居,
纔可容顏十五餘。
良人玉勒乘驄馬,
侍女金盤膾鯉魚。
畫閣朱樓盡相望,
紅桃綠柳垂簷向。
羅幃送上七香車,
寶扇迎歸九華帳。
狂夫富貴在青春,
意氣驕奢劇季倫。
自憐碧玉親教舞,
不惜珊瑚持與人。
春窗曙滅九微火,
九微片片飛花璅。
戲罷曾無理曲時,
妝成祇是薰香坐。
城中相識盡繁華,
日夜經過趙李家。
誰憐越女顏如玉,
貧賤江頭自浣紗。

Lạc Dương nữ nhi hành

Lạc Dương nữ nhi đối môn cư,
Tài khả dung nhan thập ngũ dư.
Lương nhân ngọc lặc thừa thông mã,
Thị nữ kim bàn khoái lý ngư.
Hoạ các chu lâu tận tương vọng,
Hồng đào lục liễu thuỳ thiềm hướng.
La vi tống thượng thất hương xa,
Bảo phiến nghinh quy cửu hoa trướng.
Cuồng phu phú quý tại thanh xuân,
Ý khí kiêu xa kịch Quý Luân.
Tự liên Bích Ngọc thân giao vũ,
Bất tích san hô trì dữ nhân.
Xuân song thự diệt cửu vi hoả,
Cửu vi phiến phiến phi hoa toả.
Hí bãi tằng vô lý khúc thì,
Trang thành kỳ thị huân hương toạ.
Thành trung tương thức tận phồn hoa,
Nhật dạ kinh quá Triệu, Lý gia.
Thuỳ liên Việt nữ nhan như ngọc,
Bần tiện giang đầu tự hoán sa.

Dịch nghĩa

Có người con gái Lạc Dương ở nhà đối diện,
Nhìn vẻ ngoài đoán chừng hơn mười lăm tuổi.
Chồng nàng đeo ngọc cưỡi ngựa quý,
Người hầu gái mang món cá ở trên mâm vàng.
Lầu son gác tía đối đối nhau,
Đào hồng liễu biếc rủ xuống hiên nhà.
Màn trướng tiễn xe có xức bảy mùi hương,
Quạt quý đón rèm thêu chín bông hoa.
Chồng là người phú quý và trẻ tuổi,
Ý khí kiêu xa quá mức.
Chàng thương cảm người con gái đã đích thân dạy múa,
Chẳng tiếc san hô đưa cho bất cứ ai.
Ngọn gió sớm mùa xuân dập tắt chín ngọn lửa nhỏ,
Chín ngọn lửa như những cánh của vòng hoa đang bay.
Sau khi múa nàng chỉ có đủ thời gian để hát,
Mặc trang phục xong là ngồi trước hương thơm.
Trong thành chỉ biết những chốn phồn hoa,
Ngày đêm qua những nhà giàu có nhất.
Có ai thương người con gái đất Việt nhan sắc như ngọc,
Nghèo hèn tự giặt quần áo đầu bến sông ?

Lão tướng hành 老將行 • Bài hát ông tướng già

少年十五二十時,
步行奪得胡馬騎。
射殺中山白額虎,
肯數鄴下黃須兒。
一身轉戰三千里,
一劍曾當百萬師。
漢兵奮迅如霹靂,
虜騎崩騰畏蒺藜。
衛青不敗由天幸,
李廣無功緣數奇。
自從棄置便衰朽,
世事蹉跎成白首。
昔時飛箭無全目,
今日垂楊生左肘。
路傍時賣故侯瓜,
門前學種先生柳。
蒼茫古木連窮巷,
寥落寒山對虛牖。
誓令疏勒出飛泉,
不似潁川空使酒。
賀蘭山下陣如雲,
羽檄交馳日夕聞。
節使三河募年少,
詔書五道出將軍。
試拂鐵衣如雪色,
聊持寶劍動星文。
願得燕弓射天將,
恥令越甲鳴吳軍。
莫嫌舊日雲中守,
猶堪一戰取功勳。

Lão tướng hành

Thiếu niên thập ngũ nhị thập thì,
Bộ hành đoạt đắc Hồ mã kỵ.
Xạ sát trung sơn bạch ngạch hổ,
Khẳng sổ Nghiệp Hạ hoàng tu nhi.
Nhất thân chuyển chiến tam thiên lý,
Nhất kiếm tằng đương bách vạn sư.
Hán binh phấn tấn như phích lịch,
Lỗ kỵ băng đằng uý tật lê.
Vệ Thanh bất bại do thiên hạnh,
Lý Quảng vô công duyên số kỳ.
Tự tòng khí trí tiện suy hủ,
Thế sự tha đà thành bạch thủ.
Tích thì phi tiễn vô toàn mục,
Kim nhật thuỳ dương sinh tả trửu.
Lộ bàng thì mại Cố hầu qua,
Môn tiền học chủng tiên sinh liễu.
Thương mang cổ mộc liên cùng hạng,
Liêu lạc hàn sơn đối hư dũ.
Thệ lệnh Sơ Lặc xuất phi tuyền,
Bất tự Dĩnh Xuyên không sứ tửu.
Hạ Lan sơn hạ trận như vân,
Vũ hịch giao trì nhật tịch văn.
Tiết sứ Tam Hà mộ niên thiếu,
Chiếu thư ngũ đạo xuất tướng quân.
Thí phất thiết y như tuyết sắc,
Liêu trì bảo kiếm động tinh văn.
Nguyện đắc Yên cung xạ thiên tướng,
Sỉ lệnh Việt giáp minh ngô quân.
Mạc hiềm cựu nhật Vân Trung thủ,
Do kham nhất chiến thủ công huân.

Dịch nghĩa

Lúc trẻ từ mười lăm tới hai mươi,
Chạy bộ cũng lấy được ngựa của giặc Hồ.
Vào núi bắn chết cọp trán trắng,
Không thua gì “Hoàng tu nhi” ở Nghiệp Hạ.
Tấm thân đã trải chinh chiến ba ngàn dặm,
Với một thanh kiếm địch nổi trăm vạn binh mã.
Quân nhà Hán tiến mau như sấm sét,
Kỵ binh địch bỏ chạy vì kinh sợ hầm chông của ta.
Vệ Thanh chưa từng chiến bại là có trời giúp,
Lý Quảng không được thưởng công vì số phận kỳ lạ.
Từ khi bị phế bỏ trở nên suy tàn,
Chuyện đời chưa được như ý đã bạc đầu.
Ngày trước bắn cung không cần nhắm kỹ cũng trúng,
Bây giờ khuỷu tay trái yếu như cành liễu.
Có lúc đứng bên đường bán dưa Cố hầu qua,
Trước nhà cũng trồng liễu như Ngũ liễu tiên sinh.
Sống trong ngõ hẻm nơi hoang vu đầy cây già,
Trôi dạt tới sườn núi lạnh ngắm hư không qua cửa sổ.
Nay ông mơ có thể khấn cho suối khô vọt nước ở Sơ Lặc,
Làm quan ở Dĩnh Xuyên không cần uống rượu vẫn cương trực.
Đất Hạ Lan vốn thường chinh chiến,
Nghe nói ngựa chạy quân thư ngày đêm.
Các tiết độ sứ ở Tam Hà đã tuyển quân trai tráng xong,
Vua hạ chiếu cho năm đạo quân xuất chiến do ông làm tướng quân.
Thử phủi tấm chiến y trắng như tuyết,
Hãy cầm bảo kiếm vỏ khắc thất tinh múa thử.
Muốn có thêm cung cứng xứ Yên để bắn đại tướng địch,
Cảm thấy xấu hổ khi giáp binh xứ Việt làm rộn vua ta.
Không quan ngại chuyện cũ của thái thú Vân Trung,
Vẫn mong có ngày một trận thắng để lập công trạng.

Lâm cao đài tống Lê thập di 臨高臺送黎拾遺

相送臨高臺,
川原杳何極。
日暮飛鳥還,
行人去不息。

Lâm cao đài tống Lê thập di

Tương tống lâm cao đài,
Xuyên nguyên diểu hà cực.
Nhật mộ phi điểu hoàn,
Hành nhân khứ bất tức.

Lũng Đầu ngâm 隴頭吟 • Khúc ngâm Lũng Đầu

長安少年遊俠客,
夜上戍樓看太白。
隴頭明月迥臨關,
隴上行人夜吹笛。
關西老將不勝愁,
駐馬聽之雙淚流。
身經大小百餘戰,
麾下偏裨萬戶侯。
蘇武才為典屬國,
節旄空盡海西頭。

Lũng Đầu ngâm

Trường An thiếu niên du hiệp khách,
Dạ thượng thú lâu khán Thái Bạch.
Lũng Đầu minh nguyệt quýnh lâm quan,
Lũng thượng hành nhân dạ xuy địch.
Quan tây lão tướng bất thăng sầu,
Trú mã thính chi song lệ lưu.
Thân kinh đại tiểu bách dư chiến,
Huy hạ thiên tỳ vạn hộ hầu.
Tô Vũ tài vi Điển thuộc quốc,
Tiết mao không tận hải tây đầu.

Dịch nghĩa

Thiếu niên chuộng nghề võ ở Trường An du ngoạn tới đây,
Leo lên chòi lính gác xem sao Thái Bạch.
Trăng sáng trên núi Lũng Đầu soi rõ quan ải,
Có người đi trên núi thổi sáo.
Tướng già giữ ải tới góc tây thành đang buồn bã,
Ông dừng ngựa lại nghe tiếng sáo mà ứa hai hàng lệ.
Bản thân ông đã trải qua hàng trăm trận đánh lớn nhỏ,
Quan dưới quyền đã được phong tới vạn hộ hầu.
Xưa Tô Vũ còn được phong chức Điển thuộc quốc,
Sau 19 năm chống cờ tiết ở Bắc Hải, nơi địa đầu phía tây.

Lũng Tây hành 隴西行 • Bài ca Lũng Tây

十里一走馬,
五里一揚鞭。
都護軍書至,
匈奴圍酒泉。
關山正飛雪,
烽火斷無煙。

Lũng Tây hành

Thập lý nhất tẩu mã,
Ngũ lý nhất dương tiên.
Đô hộ quân thư chí,
Hung Nô vi Tửu Tuyền.
Quan san chính phi tuyết,
Phong hoả đoạn vô yên.

Dịch nghĩa

Trạm mười dặm một kỵ binh đang phi nước đại,
Rồi trạm năm dặm một kỵ binh khác đang ra roi.
Tất cả đều mang quân thư hoả tốc:
Quân Hung Nô đang vây thành Tửu Tuyền.
Nơi quan ải đang đổ tuyết,
Phong hoả đài không dùng được.

Lương Châu tái thần 涼州賽神 • Lễ tạ ơn ở Lương Châu

涼州城外少行人,
百尺峰頭望虜塵。
健兒擊鼓吹羌笛,
共賽城東越騎神。

Lương Châu tái thần

Lương Châu thành ngoại thiểu hành nhân,
Bách xích phong đầu vọng Lỗ trần.
Kiện nhi kích cổ xuy Khương địch,
Cộng tái thành đông việt kỵ thần.

Dịch nghĩa

Ngoài thành Lương Châu ít người qua lại
Nhìn ngọn lửa cao trăm mét nhớ về nước lỗ
Trai trẻ khoẻ mạnh đánh trống thổi sáo Khương
Cùng chiến đấu ở thành Đông còn sống, thật như giấc mơ

Lưu biệt Thôi Hưng Tông 留別崔興宗 • Chia tay Thôi Hưng Tông

駐馬欲分襟,
清寒御溝上。
前山景氣佳,
獨往還惆悵。

Lưu biệt Thôi Hưng Tông

Trú mã dục phân khâm,
Thanh hàn ngự câu thượng.
Tiền sơn cảnh khí giai,
Độc vãng hoàn trù trướng.

Dịch nghĩa

Dừng ngựa lại để dứt áo,
Trên lạch nước trong và lạnh chảy qua hoàng cung.
Phong cảnh ngọn núi trước mắt khá đẹp,
Lủi thủi đi mà lòng đầy buồn thương.

Lý xử sĩ sơn cư 李處士山居

君子盈天階,
小人甘自免。
方隨練金客,
林上家絕巘。
背嶺花未開,
入雲樹深淺。
清晝猶自眠,
山鳥時一囀。

Lý xử sĩ sơn cưa
Tiểu nhân cam tự miễn.
Phương tuỳ luyện kim khách,
Lâm thượng gia tuyệt hiến.
Bối lĩnh hoa vị khai,
Nhập vân thụ thâm thiển.
Thanh trú do tự miên,
Sơn điểu thì nhất chuyển.

Nạp lương 納涼 • Mát lành

喬木萬餘株,
清流貫其中。
前臨大川口,
豁達來長風。
漣漪涵白沙,
素鮪如遊空。
偃臥磐石上,
翻濤沃微躬。
漱流複濯足,
前對釣魚翁。
貪餌凡幾許,
徒思蓮葉東。

Nạp lương

Kiều mộc vạn dư châu,
Thanh lưu quán kỳ trung.
Tiền lâm đại xuyên khẩu,
Khoát đạt lai trường phong.
Liên y hàm bạch sa,
Tố vị như du không.
Yển ngoạ bàn thạch thượng,
Phiên đào ốc vi cung.
Sấu lưu phức trạc túc,
Tiền đối điếu ngư ông.
Tham nhị phàm kỷ hứa,
Đồ tư “Liên diệp đông”.

Ngẫu nhiên tác kỳ 6 偶然作其六 • Ngẫu nhiên làm kỳ 6

老來懶賦詩,
惟有老相隨。
宿世謬詞客,
前生應畫師。
不能舍余習,
偶被世人知。
名字本皆是,
此心還不知。

Ngẫu nhiên tác kỳ 6

Lão lai lãn phú thi,
Duy hữu lão tương tuỳ.
Túc thế mậu từ khách,
Tiền sinh ứng hoạ sư.
Bất năng xả dư tập,
Ngẫu bị thế nhân tri.
Danh tự bản giai thị,
Thử tâm hoàn bất tri.

Phù Nam khúc ca từ kỳ 1 扶南曲歌詞其一

翠羽流蘇帳,
春眠曙不開。
羞從麵色起,
嬌逐語聲來。
早曏昭陽殿,
君王中使催。

Phù Nam khúc ca từ kỳ 1

Thuý vũ lưu tô trướng,
Xuân miên thự bất khai.
Tu tòng miên sắc khởi,
Kiều trục ngữ thanh lai.
Tảo hướng Chiêu Dương điện,
Quân vương trung sứ thôi.

Dịch nghĩa

Màn trang hoàng bằng đèn thuý vũ, ngù lưu tô
Đêm xuân ngủ say chẳng vén
Vẻ thẹn thùng còn thoáng trên nét mặt
Tiếng nói thỏ thẻ nũng nịu
Phải vào chầu sớm nơi điện Chiêu Dương
Nội thần đặc phái của vua cha đã thúc giục

Phụng hoạ thánh chế “Tòng Bồng Lai hướng Hưng Khánh các đạo trung lưu xuân vũ trung xuân vọng” chi tác ứng chế 

渭水自縈秦塞曲,
黃山舊繞漢宮斜。
鑾輿迥出千門柳,
閣道回看上苑花。
雲裏帝城雙鳳闕,
雨中春樹萬人家。
為乘陽氣行時令,
不是宸遊玩物華。

Phụng hoạ thánh chế “Tòng Bồng Lai hướng Hưng Khánh các đạo trung lưu xuân vũ trung xuân vọng” chi tác ứng chế

Vị thuỷ tự oanh Tần tái khúc,
Hoàng sơn cựu nhiễu Hán cung tà.
Loan dư quýnh xuất thiên môn liễu,
Các đạo hồi khan thượng uyển hoa.
Vân lý đế thành song phụng khuyết,
Vũ trung xuân thụ vạn nhân gia.
Vị thừa dương khí hành thì lệnh,
Bất thị thần du ngoạn vật hoa.

Dịch nghĩa

Sông Vị tự uốn quanh nơi miền biên tái xứ Tần
Núi Hoàng sơn vẫn nhiễu quanh cung điện thời Hán nghiêng đổ
Xe vua ra xa khỏi cửu trùng thiên môn có những cây liễu
Đi một đoạn nhìn lại thấy hoa trong vườn thượng uyển
Trong mây nhìn xuống thấy kinh thành có chạm khắc đôi phượng
Trong cơn mưa cây cỏ mùa xuân ở khắp muôn vạn nhà
Bởi nhân thời tiết mùa xuân vua đi tuần thú xem xét dân tình
Không phải đi du ngoạn ngắm cảnh vật phồn hoa

Phụng ký Vi thái thủ bộ 奉寄韋太守陟 

荒城自蕭索,
萬里山河空。
天高秋日迥,
嘹唳聞歸鴻。
寒塘映衰草,
高館落疏桐。
臨此歲方晏,
顧景詠悲翁。
故人不可見,
寂寞平陵東。

Phụng ký Vi thái thủ bộ

Hoang thành tự tiêu tác
Vạn lý sơn hà không
Thiên cao thu nhật huynh
Liêu lệ văn quy hồng
Hàn đường ánh suy thảo
Cao quán lạc sơ đồng
Lâm thử tuế phương yến
Cố ảnh vịnh bi ông
Cố nhân bất khả kiến
Tịch mịch bình lâm đông.

Vương Duy là một nhà thơ có tài năng nắng tác thơ xuất chúng khó ai có thể sánh kịp. Người ta thường khen ông là: “Trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ” (Thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi). Ðối với Phật giáo đương thời, Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái thiền tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật . Qua bài viết ta càng thêm phần biết thêm về phong cách thơ độc đáo của ông.

Tagged: