Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông là một nhà thơ nổi tiếng khi sở hữu cho mình những thi phẩm giá trị được người đời ca tụng. Phong cách thơ của Vương Duy vô cùng độc đáo và phong phú. Những tháng năm ở biên cương, thơ ông có tình điệu khẳng khái, hiên ngang, đề cao lòng yêu nước, tinh thần hăng hái của những người lính canh giữ biên cương, sẵn lòng vì một triều đại đang mở mang, hướng tới thịnh vượng. Bên cạnh đó thơ ông còn đắm trong tư tưởng hỷ xả từ bi của đạo Phật. Cùng tapchivannghe.com cảm nhận những bài thơ đi cùng năm tháng này nhé!

Điền viên lạc kỳ 6 田園樂其六 • Thú điền viên kỳ 6

桃紅復含宿雨,
柳綠更帶朝煙。
花落家童未掃,
鳥啼山客猶眠。

Điền viên lạc kỳ 6

Đào hồng phục hàm túc vũ,
Liễu lục cánh đới triêu yên.
Hoa lạc gia đồng vị tảo,
Điểu đề sơn khách do miên.

Điền viên lạc kỳ 7 田園樂其七 • Thú ruộng vườn kỳ 7

酌酒會臨泉水,
抱琴好倚長松。
南園露葵朝折,
冬谷黃梁夜春。

Điền viên lạc kỳ 7

Chước tửu hội lâm tuyền thuỷ,
Bão cầm hảo ỷ trường tùng.
Nam viên lộ quỳ triêu chiết,
Đông cốc hoàng lương dạ xuân.

Độ hà đáo Thanh Hà tác 渡河到清河作

汎舟大河裏,
積水窮天涯。
天波忽開拆,
郡邑千萬家。
行復見城市,
宛然有桑麻。
迴瞻舊鄉國,
淼漫連雲霞。

Độ hà đáo Thanh Hà tác

Phiếm chu đại hà lý,
Tích thuỷ cùng thiên nhai.
Thiên ba hốt khai sách,
Quận ấp thiên vạn gia.
Hành phục kiến thành thị,
Uyển nhiên hữu tang ma.
Hồi chiêm cựu hương quốc,
Diễu mạn liên vân hà.

Đông dạ thư hoài 冬夜書懷 • Nỗi lòng đêm đông

冬宵寒且永,
夜漏宮中發。
草白靄繁霜,
木衰澄清月。
麗服映頹顏,
朱燈照華髮。
漢家方尚少,
顧影慚朝謁。

Đông dạ thư hoài

Đông tiêu hàn thả vĩnh,
Dạ lậu cung trung phát.
Thảo bạch ái phồn sương,
Mộc suy trừng thanh nguyệt.
Lệ phục ánh đồi nhan,
Chu đăng chiếu hoa phát.
Hán gia phương thượng thiểu,
Cố ảnh tàm triêu yết.

Đông vãn đối tuyết ức Hồ cư sĩ gia 冬晚對雪憶胡居士家

寒更傳曉箭,
清鏡覽衰顏。
隔牖風驚竹,
開門雪滿山。
灑空深巷靜,
積素廣庭閑。
借問袁安舍,
翛然尚閉關?

Đông vãn đối tuyết ức Hồ cư sĩ gia

Hàn canh truyền hiểu tiễn,
Thanh kính lãm suy nhan.
Cách dũ phong kinh trúc,
Khai môn tuyết mãn sơn.
Sái không thâm hạng tĩnh,
Tích tố quảng đình nhàn.
Tá vấn Viên An xá,
Tiêu nhiên thượng bế quan?

Dịch nghĩa

Mũi tên đồng hồ nước chỉ giờ buổi sáng lạnh,
Soi gương trong thấy nhan sắc đã suy tàn.
Bên ngoài cửa sổ trúc kinh hãi luồng gió,
Mở cửa thấy tuyết phủ khắp núi.
Trên không tuyết rơi, ngõ sâu yên tĩnh,
Đình rộng phủ tuyết trắng vắng vẻ.
Xin hỏi ông Viên An ở trong nhà,
Ông thích đóng kín cửa như vậy sao?

Hạ nhật quá Thanh Long tự yết Thao thiền sư

龍鍾一老翁,
徒步謁禪宮。
欲問義心義,
遙知空病空。
山河天眼裡,
世界法身中。
莫怪銷炎熱,
能生大地風。

Hạ nhật quá Thanh Long tự yết Thao thiền sư

Long chung nhất lão ông,
Từ bộ yết Thiền cung.
Dục vấn nghĩa tâm nghĩa,
Dao tri không bệnh không.
Sơn hà thiên nhãn lý,
Thế giới pháp thân trung.
Mạc quái tiêu viêm nhiệt,
Năng sinh đại địa phong.

Hán giang lâm diểu 漢江臨眺 • Ngắm cảnh sông Hán

楚塞三湘接,
荊門九派通。
江流天地外,
山色有無中。
郡邑浮前浦,
波瀾動遠空。
襄陽好風日,
留醉與山翁。

Hán giang lâm diểu

Sở tái Tam Tương tiếp,
Kinh Môn cửu phái thông.
Giang lưu thiên địa ngoại,
Sơn sắc hữu vô trung.
Quận ấp phù tiền phố,
Ba lan động viễn không.
Tương Dương hảo phong nhật,
Lưu tuý dữ sơn ông.

Dịch nghĩa

Nơi miền biên tái nước Sở chỗ ba Tương tiếp giáp
Tới Kinh Môn chín nhánh chụm lại
Dòng sông chảy ngoài vùng trời đất
Màu núi ở giữa chỗ có và không
Quận ấp nổi lên ở phía trước bãi sông
Sóng vỗ lan động đến phương trời xa
Nắng gió đẹp trời ở Tương Dương
Ở lại say cùng với kẻ ẩn dật

Hàn thực Tỵ thượng tác 寒食汜上作

廣武城邊逢暮春,
汶陽歸客淚沾巾。
落花寂寂啼山鳥,
楊柳青青渡水人。

Hàn thực Tỵ thượng tác

Quảng Vũ thành biên phùng mộ xuân,
Vấn Dương quy khách lệ triêm cân.
Lạc hoa tịch tịch đề sơn điểu,
Dương liễu thanh thanh độ thuỷ nhân.

Dịch nghĩa

Bên thành Quảng Vũ gặp buổi cuối xuân
Người lữ khách đất Vấn Dương trên đường về lệ ướt khăn
Hoa rơi lặng lẽ trong tiếng chim núi hót
Dương liễu xanh mướt chứng kiến cảnh người sang đò

Hí đề bàn thạch 戲題磐石 • Bỡn đề lên bàn đá

可憐磐石臨泉水,
複有垂楊拂酒杯。
若道春風不解意,
何因吹送落花來?

Hí đề bàn thạch

Khả liên bàn thạch lâm tuyền thuỷ,
Phục hữu thuỳ dương phất tửu bôi.
Nhược đạo xuân phong bất giải ý,
Hà nhân xuy tống lạc hoa lai?

Dịch nghĩa

Dễ thương thay bàn đá nhìn suối nước,
Lại có cành dương vuốt ve chén rượu.
Nếu bảo rằng gió xuân không hiểu ý,
Thì sao lại thổi đến một đoá hoa rụng.

Hiểu hành Ba Giáp 曉行巴峽

際曉投巴峽,
餘春憶帝京。
晴將一女浣,
朝日眾雞鳴。
水國舟中市,
山橋樹杪行。
登高萬井出,
眺迥二流明。
人作殊方語,
鶯為故國聲。
賴多山水趣,
稍解別離情。

Hiểu hành Ba Giáp

Tế hiểu đầu Ba Giáp,
Dư xuân ức đế kinh.
Tình tương nhất nữ hoán,
Triêu nhật chúng kê minh.
Thuỷ quốc chu trung thị,
Sơn kiều thụ diểu hành.
Đăng cao vạn tỉnh xuất,
Diểu quýnh nhị lưu minh.
Nhân tác thù phương ngữ,
Oanh vi cố quốc thanh.
Lại đa sơn thuỷ thú,
Sảo giải biệt ly tình.

Hoạ 畫 • Bức tranh

遠看山有色,
近聽水無聲。
春去花還在,
人來鳥不驚。

Hoạ

Viễn khan sơn hữu sắc,
Cận thính thuỷ vô thanh.
Xuân khứ hoa hoàn tại,
Nhân lai điểu bất kinh.

Dịch nghĩa

Từ xa nhìn thấy núi có màu sắc.
Đến gần nghe không thấy tiếng nước chảy
Mùa xuân qua rồi mà hoa vẫn còn
Người đến mà chim chẳng sợ.

Hoạ Giả Chí xá nhân “Tảo triều Đại Minh cung” chi tác

絳幘雞人抱曉籌,
尚衣方進翠雲裘。
九天閶闔開宮殿,
萬國衣冠拜冕旒。
日色才臨仙掌動,
香煙欲傍袞龍浮。
朝罷須裁五色詔,
佩聲歸到鳳池頭。

Hoạ Giả Chí xá nhân “Tảo triều Đại Minh cung” chi tác

Giáng trách kê nhân bão hiểu trù,
Thượng y phương tiến thuý vân cừu.
Cửu thiên xương hạp khai cung điện,
Vạn quốc y quan bái miện lưu.
Nhật sắc tài lâm Tiên Chưởng động,
Hương yên dục bạng cổn long phù.
Triều bãi tu tài ngũ sắc chiếu,
Bội thanh quy đáo Phụng Trì đầu.

Dịch nghĩa

Vệ sĩ đầu đội khăn đỏ lên tiếng báo hiệu trời sáng
Quan lo y phục vừa dâng áo quý cho vua mặc
Cửu trùng cung môn mở rộng cổng cung điện
Các quan từ vạn quốc vào triều kiến quân vương
Ánh mặt trời vừa mới chiếu xuống ánh trên cột điện Tiên Chưởng
Khói hương trầm bay phảng phất bên cạnh vua
Bãi triều còn phải làm chiếu ngũ sắc để dâng vua
Tiếng ngọc bội vang lên về hướng ao Phụng Trì

Hoạ thái thường Vi chủ bạ Ôn Thang ngụ mục

漢主离宮接露臺,
秦川一半夕陽開。
青山盡是朱旗繞,
碧澗翻從玉殿來。
新豐樹里行人度,
小苑城邊獵騎迴。
聞道甘泉能獻賦,
懸知獨有子雲才。

Hoạ thái thường Vi chủ bạ Ôn Thang ngụ mục

Hán chủ ly cung tiếp Lộ đài,
Tần xuyên nhất bán tịch dương khai.
Thanh sơn tận thị chu kỳ nhiễu,
Bích giản phiên tòng ngọc điện lai.
Tân Phong thụ lý hành nhân đạc,
Tiểu Uyển thành biên liệp kỵ hồi.
Văn đạo Cam Tuyền năng hiến phú,
Huyền tri độc hữu Tử Vân tài.

Dịch nghĩa

Ly cung của vua Hán ngay bên Lộ đài,
Nắng chiều chiếu trên một nửa sông đất Tần.
Trên các núi xanh đều cắm cờ đỏ quanh co,
Dòng suối biếc từ điện ngọc chảy xuống.
Người đi bộ đi qua rừng cây xứ Tân Phong,
Thợ săn cưỡi ngựa trở về Tiểu Uyển bên thành.
Nghe nói ở Cam Tuyền có người làm phú hay,
Có lẽ chỉ Tử Vân có tài đó.

Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 1 – Điểu minh giản 皇甫岳雲谿雜題其一-鳥鳴澗 

人閒桂花落,
夜靜春山空。
月出驚山鳥,
時鳴春澗中。

Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 1 – Điểu minh giản

Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh xuân giản trung.

Dịch nghĩa

Người nhàn nhã, hoa quế rụng
Đêm thanh tĩnh, ngọn núi mùa xuân yên
Trăng nhô lên làm kinh động loài chim núi
Ở trong khe núi xuân, hót vang lên.

Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 5 – Bình trì

春池深且廣,
會待輕舟迴。
靡靡綠萍合,
垂楊掃復開。

Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 5 – Bình trì

Xuân trì thâm thả quảng,
Hội đãi khinh chu hồi.
Mị mị lục bình hợp,
Thuỳ dương tảo phục khai.

Dịch nghĩa

Ao xuân vừa sâu vừa rộng,
Đứng đợi thuyền nhỏ trở lại.
Bèo xanh từ từ hợp lại,
Một nhánh dương liễu rủ thấp quét chúng lại tản ra.

Hối nhật du Đại Lý Vi Khanh thành nam biệt nghiệp kỳ 4 晦日遊大理韋卿城南別業其四 

高館臨澄陂,
曠望蕩心目。
澹蕩動雲天,
玲瓏映墟曲。
鵲巢結空林,
雉雊響幽谷。
應接無閒暇,
徘徊以躑躅。
紆組上春隄,
側弁倚喬木。
弦望乎已晦,
後期洲應綠。

Hối nhật du Đại Lý Vi Khanh thành nam biệt nghiệp kỳ 4

Cao quán lâm trừng pha,
Khoáng vọng đãng tâm mục.
Đạm đãng động vân thiên,
Linh lung ánh khư khúc.
Thước sào kết không lâm,
Trĩ cẩu hưởng u cốc.
Ưng tiếp vô nhàn hạ,
Bồi hồi dĩ trịch trục.
Hu tổ thượng xuân đê,
Trắc biện ỷ kiều mộc.
Huyền vọng hồ dĩ hối,
Hậu kỳ châu ứng lục.

Hồng mẫu đơn 紅牡丹 • Mẫu đơn hồng

綠艷閒且靜,
紅衣淺復深。
花心愁欲斷,
春色豈知心。

Hồng mẫu đơn

Lục diễm nhàn thả tĩnh,
Hồng y thiển phục thâm.
Hoa tâm sầu dục đoạn,
Xuân sắc khởi tri tâm.

Hý tặng Trương ngũ đệ nhân 戲贈張五弟諲

張弟五車書,
讀書仍隱居。
染翰過草聖,
賦詩輕子虛。
閉門二室下,
隱居十年余。
宛是野人也,
時從父漁魚。
秋風日蕭索,
五柳高且疏。
望此去人世,
渡水向吾廬。
歲晏同攜手,
隻應君與予。

Hý tặng Trương ngũ đệ nhân

Trương đệ ngũ xa thư,
Độc thư nhưng ẩn cư.
Nhiễm hàn quá Thảo Thánh,
Phú thi khinh Tử Hư.
Bế môn Nhị Thất hạ,
Ẩn cư thập niên dư.
Uyển thị dã nhân dã,
Thì tòng phụ ngư ngư.
Thu phong nhật tiêu tác,
Ngũ liễu cao thả sơ.
Vọng thử khứ nhân thế,
Độ thuỷ hướng ngô lư.
Tuế yến đồng huề thủ,
Chích ưng quân dữ dữ.

Dịch nghĩa

Em Trương có năm xe sách
Đọc sách nhưng ở ẩn
Nhúng bút viết chữ hơn Thảo Thánh
Làm thơ xem nhẹ Tử Hư
Đóng cửa dưới núi Nhị Thập
Ở ẩn hơn mười năm
Giống hệt người nhà quê
Có lúc theo ông chài đánh cá
Gió thu ngày thêm hiu hắt
Năm cây liễu cao lại thưa
Cứ như thế xa lánh đời
Đi đò về hướng nhà ta
Năm về cuối cầm tay nhau
Chỉ nên em và ta thôi

Khẩu hào hựu thị Bùi Địch 口號又示裴迪 

安得捨塵網,
拂衣辭世喧。
悠然策藜杖,
歸向桃花源。

Khẩu hào hựu thị Bùi Địch

An đắc xả trần võng,
Phất y từ thế huyên.
Du nhiên sách lê trượng,
Quy hướng đào hoa nguyên.

Khổ nhiệt hành 苦熱行 • Nóng khổ

赤日滿天地,
火雲成山嶽。
草木盡焦卷,
川澤皆竭涸。
輕紈覺衣重,
密樹苦陰薄。
莞簟不可近,
絺綌再三濯。
思出宇宙外,
曠然在寥廓。
長風萬里來,
江海蕩煩濁。
卻顧身為患,
始知心未覺。
忽入甘露門,
宛然清涼樂。

Khổ nhiệt hành

Xích nhật mãn thiên địa,
Hoả vân thành sơn nhạc.
Thảo mộc tận tiêu quyển,
Xuyên trạch giai kiệt hạc.
Khinh hoàn giác y trọng,
Mật thụ khổ âm bạc.
Hoàn điệm bất khả cận,
Hy khích tái tam trạc.
Tư xuất vũ trụ ngoại,
Khoáng nhiên tại liêu khuếch.
Trường phong vạn lý lai,
Giang hải đãng phiền trọc.
Khước cố thân vi hoạn,
Thuỷ tri tâm vị giác.
Hốt nhập Cam Lộ môn,
Uyển nhiên thanh lương lạc.

Vương Duy là một nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ trẻ. Thơ ông có chất hùng tráng và thâm trầm. Tài thơ của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc miêu tả thiên nhiên tinh tế và đầy sống động. Ngôn ngữ thơ cô đọng và điêu luyện, phù hợp với những ý tứ sâu sắc, truyền cảm. Ngoài tài thơ ra, Vương Duy còn sành âm nhạc, giỏi thư pháp và hội hoạ. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi.

Tagged: