Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông từ nhỏ đã nổi tiếng là một thần đồng văn võ song toàn. Ông để lại khoảng 400 bài thơ, trong đó có những bài thơ thời trẻ bộc lộ tâm trạng của lớp tri thức có tài có chí không được dùng, sống trong cảnh hàn vi, còn bọn công tử quý tộc dốt nát lại giàu có, rong chơi xa hoa, trụy lạc. Hãy cùng tapchivannghe.com đón xem ngay bây giờ nhé!

Ban tiệp dư kỳ 3 班婕妤其三

怪來妝閣閉,
朝下不相迎。
總向春園裏,
花間笑語聲。

Ban tiệp dư kỳ 3

Quái lai trang các bế,
Triều hạ bất tương nghinh.
Tổng hướng xuân viên lý,
Hoa gian tiếu ngữ thanh.

Biệt đệ muội 別弟妹 • Chia tay em gái

兩妹日成長,
雙鬟將及人。
以能持寶瑟,
自解掩羅巾。
念昔別時小,
未知疏與親。
今來始離恨,
拭淚方慇懃。

Biệt đệ muội

Lưỡng muội nhật thành trưởng,
Song hoàn tương cập nhân.
Dĩ năng trì bảo sắt,
Tự giải yểm la cân.
Niệm tích biệt thì tiểu,
Vị tri sơ dữ thân.
Kim lai thuỷ ly hận,
Thức lệ phương ân cần.

Chung Nam biệt nghiệp 終南別業

中歲頗好道,
晚家南山陲。
興來美獨往,
勝事空自知。
行到水窮處,
坐看雲起時。
偶然值林叟,
談笑無還期。

Chung Nam biệt nghiệp

Trung thế phả hiếu đạo,
Vân gia Nam sơn thuỳ.
Hứng lai mỗi độc vãng,
Thắng sự không tự tri.
Hành đáo thuỷ cùng xứ,
Toạ khan vân khởi thì.
Ngẫu nhiên tri lâm tẩu,
Ðàm tiếu vô hoàn kỳ.

Dịch nghĩa

Lúc còn trung niên rất mộ đạo
Đến lúc già về ở mé núi Chung Nam
Có hứng thì đi dạo một mình
Có chuyện thích ý một mình mình biết
Đi đến tận cùng chỗ hết nước
Ngồi nhìn lúc mây bắt đầu hiện ra
Ngẫu nhiên bỗng gặp có cụ lão trong rừng
Nói nói cười cười không để ý chừng nào về nhà

Chung Nam sơn 終南山 • Núi Chung Nam

太乙近天都,
連山接海隅。
白雲回望合,
青靄入看無。
分野中峰變,
陰晴眾壑殊。
欲投人處宿,
隔水問樵夫。

Chung Nam sơn

Thái Ất cận thiên đô,
Liên sơn tiếp hải ngung.
Bạch vân hồi vọng hợp,
Thanh ái nhập khan vô.
Phân dã trung phong biến,
Âm tình chúng hác thù.
Dục đầu nhân xứ túc,
Cách thuỷ vấn tiều phu.

Dịch nghĩa

Toà núi Thái Ất này gần kinh đô
Nguyên dãy núi chạy dài cho đến tận mé biển
Mây trắng bao phủ kín mít chung quanh
Núi non mù mịt chìm vào chỗ không còn thấy được
Lấy những tinh tú làm khu vực thì từ chính giữa núi ra có nhiều khu vực
Phong cảnh nơi này nơi kia khác nhau
Muốn tìm nơi có người ở để trú túc
Cách con nước hỏi người tiều phu đường lối

Chước tửu dữ Bùi Địch 酌酒與裴迪

酌酒與君君自寬,
人情翻覆似波瀾。
白首相知猶按劍,
朱門先達笑彈冠。
草色全經細雨濕,
花枝欲動春風寒。
世事浮雲何足問,
不如高臥且加餐。

Chước tửu dữ Bùi Địch

Chước tửu dữ quân quân tự khoan,
Nhân tình phiên phúc tự ba lan.
Bạch thủ tương tri do án kiếm,
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan.
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp,
Hoa chi dục động xuân phong hàn.
Thế sự phù vân hà túc vấn,
Bất như cao ngoạ thả gia san.

Dịch nghĩa

Rót rượu mời bạn, xin bạn thong thả
Nhân tình tráo trở như sóng nhồi
Đầu bạc biết nhau lâu mà còn chống gươm nhìn
Cửa quyền quý người làm quan cười kẻ chưa ra làm quan
Màu cỏ hoàn toàn được mưa li ti làm ướt đẫm
Cành hoa vừa muốn nở thì đã bị gió xuân lạnh lẽo thổi
Chuyện đời như mây trôi không đáng hỏi đến
Không bằng cứ nằm ườn ra còn ăn thêm nhiều vào

Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ 九月九日憶山東兄弟

獨在異鄉為異客,
每逢佳節倍思親。
遙知兄弟登高處,
遍插茱萸少一人。

Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ

Độc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.

Dịch nghĩa

Một mình ở nơi đất lạ làm khách lạ,
Mỗi khi tới ngày tiết đẹp lại nhớ người thân bội phần.
Từ nơi xa này vẫn biết rằng anh em lên nơi cao,
Đều cắm cánh thù du nhưng thiếu mất mội người.

Di môn ca 夷門歌 • Bài ca cho cửa Di môn

七雄雄雌猶未分,
攻城殺將何紛紛。
秦兵益圍邯鄲急,
魏王不救平原君。
公子為嬴停駟馬,
執轡愈恭意愈下。
亥為屠肆鼓刀人,
嬴乃夷門抱關者。
非但慷慨獻奇謀,
意氣兼將生命酬。
向風刎頸送公子,
七十老翁何所求。

Di môn ca

Thất hùng hùng thư do vị phân,
Công thành sát tướng hà phân phân.
Tần binh ích vi Hàm Đan cấp,
Nguỵ vương bất cứu Bình Nguyên Quân.
Công tử vị Doanh đình tứ mã,
Chấp bí dũ cung ý dũ hạ.
Hợi vi đồ tứ cổ đao nhân,
Doanh nãi Di môn bão quan giả.
Phi đản khảng khái hiến kỳ mưu,
Ý khí kiêm tương sinh mạng thù.
Hướng phong vẫn cảnh tống công tử,
Thất thập lão ông hà sở cầu.

Dịch nghĩa

Bảy nước tranh hùng, chinh chiến mãi chưa phân thắng bại,
Chuyện tấn công thành, chiến tướng chém giết nhau xảy ra liên miên.
Quân nước Tần vây thành Hàm Đan rất ngặt,
Mà vua nước Nguỵ chưa chịu gửi quân cứu Bình Nguyên Quân.
Công tử Tín Lăng Quân vì Hầu Doanh mà dừng xe bốn ngựa,
Việc dừng ngựa đã là cung kính rồi, nhưng còn cho thấy người sang hạ cố kẻ hèn.
Chu Hợi chỉ là đồ tể dao thớt ngoài chợ,
Hầu Doanh vốn trước là lính canh gác ở cửa Di môn.
Chẳng vì thế nay còn mạnh dạn hiến kế lạ,
Ý khí còn gồm cả việc lấy tính mạng đền ơn tri ngộ.
Trước gió đâm cổ tự sát để tiễn công tử,
Ông lão bảy mươi tuổi này làm thế để cầu mong được gì vậy?

Du Lâm ca 榆林歌 • Bài ca đất Du Lâm

山頭松柏林,
山下泉聲傷客心。
千里萬里春草色,
黃河東流流不息。
黃龍戍上遊俠兒,
愁逢漢使不相識。

Du Lâm ca

Sơn đầu tùng bách lâm,
Sơn hạ tuyền thanh thương khách tâm.
Thiên lý vạn lý xuân thảo sắc,
Hoàng Hà đông lưu lưu bất tức.
Hoàng Long thú thượng du hiệp nhi,
Sầu phùng Hán sứ bất tương thức.

Du Lý sơn nhân sở cư nhân đề ốc bích 

世上皆如夢,
狂來止自歌。
問年松樹老,
有地竹林多。
藥倩韓康賣,
門容尚子過。
翻嫌枕席上,
無那白雲何。

Du Lý sơn nhân sở cư nhân đề ốc bích

Thế thượng giai như mộng,
Cuồng lai chỉ tự ca.
Vấn niên tùng thụ lão,
Hữu địa trúc lâm đa.
Dược thiến Hàn Khang mại,
Môn dung Thượng Tử quá.
Phiên hiềm chẩm tịch thượng,
Vô ná bạch vân hà.

Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình

綠樹重陰蓋四鄰,
青苔日厚自無塵。
科頭箕踞長松下,
白眼看他世上人。

Dữ Lư viên ngoại Tượng quá Thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình

Lục thụ trùng âm cái tứ lân
Thanh đài nhật hậu tự vô trần
Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ
Bạch nhãn khán tha thế thượng nhân.

Dịch nghĩa

Cây xanh lớp lớp che mát cả bốn phía,
Rêu xanh ngày một dày, tự nó đã không có bụi rồi.
Dưới gốc cây thông cao, đầu không khăn, ngồi xoạc cẳng,
Nhìn người đời bằng con mắt không ganh đua.

Đào Nguyên hành 桃源行

漁舟逐水愛山春,
兩岸桃花夾古津。
坐看紅樹不知遠,
行盡青溪不見人。
山口潛行始隈隩,
山開曠望旋平陸。
遙看一處攢雲樹,
近入千家散花竹。
樵客初傳漢姓名,
居人未改秦衣服。
居人共住武陵源,
還從物外起田園。
月明松下房櫳靜,
日出雲中雞犬喧。
驚聞俗客爭來集,
競引還家問都邑。
平明閭巷掃花開,
薄暮漁樵乘水入。
初因避地去人間,
及至成仙遂不還。
峽裡誰知有人事,
世中遙望空雲山。
不疑靈境難聞見,
塵心未盡思鄉縣。
出洞無論隔山水,
辭家終擬長遊衍。
自謂經過舊不迷,
安知峰壑今來變。
當時只記入山深,
青溪幾曲到雲林?
春來遍是桃花水,
不辨仙源何處尋?

Đào Nguyên hành

Ngư châu trục thuỷ ái sơn xuân
Lưỡng ngạn đào hoa giáp cổ tân
Toạ khán hồng trụ bất tri viễn
Hành tận thanh khê bất kiến nhân
Sơn khẩu tiệm thành thỉ ôi áo
Sơn khai khoáng vọng triền bình lục
Diêu khán nhất xứ toản vân thụ
Cận nhập thiên gia tán hoa trúc
Tiều khách sơ truyền Hán tính danh
Cư nhân vị cải Tần y phục
Cư nhân cộng trú Võ Lăng nguyên
Hoàn tùng vật ngoại khởi điền viên
Nguyệt minh tùng hạ phòng long tịnh
Nhật xuất vân trung kê khuyển huyên
Kinh văn tục khách tranh lai tập
Cạnh dẫn hoàn gia vấn đô ấp
Bình minh lư hạng tảo hoa khai
Bạc mộ ngư tiều thừa thuỷ nhập
Sơ nhân ti địa khứ nhân gian
Cánh văn thành tiên toại bất hoàn
Giáp lý thuỳ tri hữu nhân sự
Thế trung diêu vọng không vân sơn
Bất nghi linh cảnh nan văn kiến
Trần tâm vị tận tư hương huyện
Xuất động vô luận cách sơn thuỷ
Từ gia chung nghỉ trường du diễn
Tự vi kinh quá cựu bất mê
An tri phong hát kim lai biến
Đương thời chỉ ký nhập sơn thâm
Thanh khê kỷ độ đáo vân lâm
Xuân lai biến thị Đào hoa thuỷ
Bất biện tiên nguyên hà xứ tầm?

Đáp Bùi Địch 答裴迪 • Trả lời Bùi Địch

淼淼寒流廣,
蒼蒼秋雨晦。
君問終南山,
心知白雲外。

Đáp Bùi Địch

Miểu miểu hàn lưu quảng,
Thương thương thu vũ hối.
Quân vấn Chung Nam sơn,
Tâm tri bạch vân ngoại.

Đáp Trương ngũ đệ Nhân 答張五弟人

終南有茅屋,
前對終南山。
終年無客常閉關,
終日無心長自閑。
不妨飲酒復垂釣,
君但能來相往還。

Đáp Trương ngũ đệ Nhân

Chung Nam hữu mao ốc,
Tiền đối Chung Nam san.
Chung niên vô khách thường bế quan,
Chung nhật vô tâm trường tự nhàn.
Bất phương ẩm tửu phục thuỳ điếu,
Quân đãn năng lai tương vãng hoàn.

Dịch nghĩa

Chung Nam có nóc nhà tranh
Trước mặt đối diện có Chung Nam sơn
Cả năm không có khách lại chơi lâu ngày cửa đóng
Cả ngày không có cơ tâm lâu nay vẫn nhàn nhã
Không hề gì chuyện uống rượu và câu cá
Bạn cứ việc lại chơi qua lại

Đăng Biện Giác tự 登辨覺寺

竹徑從初地,
蓮峰出化城。
窗中三楚盡,
林上九江平。
軟草承趺坐,
長松響梵聲。
空居法雲外,
觀世得無生。

Đăng Biện Giác tự

Trúc kính tòng sơ địa,
Liên phong xuất Hoá Thành.
Song trung tam Sở tận,
Lâm thượng cửu giang bình.
Nhuyễn thảo thừa phu toạ,
Trường tùng hưởng Phạm thanh.
Không cư pháp vân ngoại,
Quán thế đắc vô sinh.

Đăng Hà Bắc thành lâu tác 登河北城樓作

井邑傅巖上,
客亭雲霧間。
高城眺落日,
極浦映蒼山。
岸火孤舟宿,
漁家夕鳥還。
寂寥天地暮,
心與廣川閒。

Đăng Hà Bắc thành lâu tác

Tỉnh ấp phó nham thượng,
Khách đình vân vụ gian.
Cao thành diểu lạc nhật,
Cực phố ánh thương sơn.
Ngạn hoả cô chu túc,
Ngư gia tịch điểu hoàn.
Tịch liêu thiên địa mộ,
Tâm dữ quảng xuyên nhàn.

Đầu Đạo Nhất sư Lan Nhược túc 投道一師蘭若宿

一公棲太白,
高頂出風煙。
梵流諸壑遍,
花雨一峰偏。
跡為無心隱,
名因立教傳。
鳥來遠語法,
客去更安禪。
晝涉松路盡,
暮投蘭若邊。
洞房隱深竹,
清夜聞遙泉。
向是雲霞裏,
今成枕席前。
豈唯暫留宿,
服事將窮年。

Đầu Đạo Nhất sư Lan Nhược túc

Nhất công thê Thái Bạch,
Cao đỉnh xuất phong yên.
Phạm lưu chư hác biến,
Hoa vũ nhất phong thiên.
Tích vị vô tâm ẩn,
Danh nhân lập giáo truyền.
Điểu lai viễn ngữ pháp,
Khách khứ cánh an thiền.
Trú thiệp tùng lộ tận,
Mộ đầu Lan Nhược biên.
Động phòng ẩn thâm trúc,
Thanh dạ văn dao tuyền.
Hướng thị vân hà lý,
Kim thành chẩm tịch tiền.
Khởi duy tạm lưu túc,
Phục sự tương cùng niên.

Đề hữu nhân vân mẫu trướng tử 題友人雲母障子

君家雲母障,
時向野庭開。
自有山泉入,
非因采畫來。

Đề hữu nhân vân mẫu trướng tử

Quân gia vân mẫu trướng,
Thì hướng dã đình khai.
Tự hữu sơn tuyền nhập,
Phi nhân thái hoạ lai.

Dịch nghĩa

Nhà anh có tấm bình phong kết bằng các viên đá vân mẫu,
Đặt trước lối ra sân trước.
Trên đó, có cảnh núi cao và suối rừng do đá kết thành,
Đẹp như tranh vẽ, mà không cần sơn màu.

Điền viên lạc kỳ 1 田園樂其一 • Thú điền viên kỳ 1

厭見千門萬戶,
經過北里南鄰。
官府鳴珂有底,
崆峒散發何人?

Điền viên lạc kỳ 1

Yếm kiến thiên môn vạn hộ,
Kinh qua bắc lý nam lân.
Quan phủ minh kha hữu để,
Không Đồng tán phát hà nhân?

Dịch nghĩa

Đã chán xem ngàn nhà vạn cửa,
Chán đi làng bắc xóm nam.
Xe quan phủ cuối cùng đã thôi reo tiếng ngọc,
Lui về Không Đồng sống nhàn là ai đó?

Điền viên lạc kỳ 2 田園樂其二 • Thú điền viên kỳ 2

再見封侯萬戶,
立談賜璧一雙。
詎勝耦耕南畝,
何如高臥東窗。

Điền viên lạc kỳ 2

Tái kiến phong hầu vạn hộ,
Lập đàm tứ bích nhất song.
Cự thăng ngẫu canh nam mẫu,
Hà như cao ngoạ đông song.

Dịch nghĩa

Lại thấy cảnh bọn tước hầu quyền quý,
Chuyện trò rồi tặng nhau ngọc bích.
Nếu từ quan rồi về cày ruộng ở cánh đồng phía nam,
Chi bằng cứ như thế này nằm gối cao đầu bên cửa sổ phía đông.

Điền viên lạc kỳ 3 田園樂其三 • Thú điền viên kỳ 3

採菱渡頭風急,
策杖西村日斜。
荇樹彈邊漁父,
桃花源裏人家。

Điền viên lạc kỳ 3

Thái lăng độ đầu phong cấp,
Sách trượng Tây thôn nhật tà.
Hạnh thụ đàn biên ngư phủ,
Đào hoa nguyên lý nhân gia.

Điền viên lạc kỳ 4 田園樂其四 • Thú ruộng vườn kỳ 4

萋萋春草秋祿,
落落長松夏寒。
牛羊自歸村巷,
童稚未識衣冠。

Điền viên lạc kỳ 4

Thê thê phương thảo xuân lục,
Lạc lạc trường tùng hạ hàn.
Ngưu dương tự quy lậu hạng,
Đồng trĩ bất thức y quan.

Dịch nghĩa

Cỏ thơm xanh mơn mởn, mùa xuân biếc
Tùng cao chót vót, tiết hè lạnh
Trâu dê tự về xóm nhỏ
Trẻ con không biết đến áo mũ quan

Điền viên lạc kỳ 5 田園樂其五 • Thú ruộng vườn kỳ 5

山下孤煙遠村,
天邊獨樹高原。
一瓢顏回陋巷,
五柳先生對門。

Điền viên lạc kỳ 5

Sơn hạ cô yên viễn thôn,
Thiên biên độc thụ cao nguyên.
Nhất biều Nhan Hồi lậu hạng,
Ngũ Liễu tiên sinh đối môn.

Vương Duy là một nhà thơ nổi tiếng thời kỳ Thịnh Đường ( Trung Quốc ). Ông sở hữu một kho tàng thơ lớn góp phần không nhỏ cho nền văn học nước nhà. Những bài thơ đặc sắc để rồi qua đó chúng ta thêm phần thán phục trước phong cách sáng tác thơ của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Tagged: