Arthur Rimbaud là nhà thơ Pháp, một trong những người sáng lập trường phái ấn tượng, là nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới văn học và nghệ thuật hiện đại. Ông từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh và tài năng. Mặc dù chặng đường sáng tác của ông rất ngắn nhưng đã để lại cho đời những tác phẩm vô cùng giá trị. Arthur Rimbaud đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của thơ ca Pháp. Ông là người có công trong việc làm giàu ngôn ngữ, hình tượng cũng như thể loại thơ ca. Nửa cuối thế kỷ XX, Arthur Rimbaud trở thành một hiện tượng văn hoá đại chúng. Hình tượng Rimbaud được thể hiện qua rất nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới. Ngay bây giờ hãy cùng tapchivannghe.com chiêm ngưỡng những tác phẩm của ông nhé!

Bầu chọn nhà thơ Ver erat

Ver erat, et morbo Romae languebat inerti
Orbilius: dira tacuerunt tela magistri
Plagarum sonus non iam veniebat ad aures
Nec ferula assiduo cruciabat membra dolore.
Arripui tempus: ridentia rura petiui
Immemor: a studo moti curisque soluti
Blanda fatigam recrearunt gaudia mentem.
Nescio qua laeta captum dulcedine pectus
Taedia iam ludi, iam tristia verba magistri
Oblitum, campos late spectare iuuabat
Laetaque vernantis miracula cernere terrae.
Nec ruris tantum puer otia vana petebam:
Maiores paruo capiebam pectore sensus:
Nescio lymphatis quae mens diuinior alas
Sensibus addebat: tacito spectacula visu
Attonitus contemplabar: pectusque calentis
Insinuabat amor ruris: ceu ferreus olim
Annulus, arcana quem vi Magnesia cautes
Attrahit, et caecis tacitum sibi colligat hamis.
Interea longis fessos erroribus artus
Deponens, iacui viridanti in fluminis ora
Murmure languidulo sopitus, et otia duxi
Permulsus volucrum concentu auraque Fauoni.
Ecce per aetheream vallem incessere columbae
Alba manus, rostro florentia serta gerentes
Quae Venus in Cypriis redolentia carpserat hortis.
Gramen, vbi fusus recreabar turba petiuit
Molli remigio: circum plaudentibus alis
Inde meum cinxere caput, vincloque virente
Deuinxere manus, et olenti tempora myrto
Nostra coronantes, pondus per inane tenellum
Erexere. . . . Cohors per nubila celsa vehebat
Languidulum rosea sub fronde: cubilia ventus
Ore remulcebat molli nutantia motu.
Vt patrias tetigere domos, rapidoque volatu
Monte sub aerio pendentia tecta columbae
Intrauere, breue positum vigilemque reliquunt.
O dulcem volucrum nidum! . . . Lux candida puri.
Circumfusa humeros radiis mea corpora vestit:
Nec vero obscurae lux illa similima luci,
Quae nostros hebebat mixta caligine visus:
Terrenae nil lucis habet caelestis origo!
Nescio quid caeleste mihi per pectora semper
Insinuat, pleno currens ceu flumine, numen.
Interea redeunt volucres, rostroque coronam
Laurea serta gerunt, quali redimitus Apollo
Argutas gaudat compellere pollice chordas.
Ast vbi laurifera frontem cinxere corona
Ecce mihi patuit caelum, visuque repente
Attonito, volitans super aurea nubila, Phoebus
Diuina vocale manu praetendere plectrum.
Tum capiti inscripsit caelesti haec nomina flamma:
TV VATES ERIS. . . . In nostros se subiicit artus
Tum calor insolitus, ceu, puro splendida vitro,
Solis inardescit radiis vis limpida fontis.
Tunc etiam priscam speciem liquere columbae:
Musarum chorus apparet, modulamina dulci
Ore sonans, blandisque exceptum sustulit vlnis,
Omina ter fundens, ter lauro tempore cingens.

Dịch

Vào mùa xuân, Orbilius thành Rome
Bệnh liệt giường, cây gậy không thương xót
Không còn vang lên đinh tai nhức óc
Không còn quất lên tay lẫn bờ vai
Tôi thừa cơ bỏ học ra đồng ruộng
Trút hết âu lo, niềm vui nhẹ nhõm
Hạnh phúc sao, xa trường lớp tẻ buồn
Vui với cảnh những cánh đồng mênh mông
Đón mùa xuân diệu kỳ trên mặt đất
Ngày thơ bé tôi chỉ mong tìm được
Một chỗ nghỉ hư ảo chốn ruộng đồng
Với ảo tưởng chất ngất tận đáy lòng
Tôi lướt theo ngọn gió thần lồng lộng
Chắp cánh cho giác quan tôi bay bổng
Tôi lặng lẽ ngắm thế giới mênh mông
Như khoen sắt máng vào thỏi nam châm
Tôi vào vào nó sức hút mãnh liệt
Với trọn tình yêu thiên nhiên cuồng nhiệt
Thế rồi khi tay chân đã rã rời
Sau những chuyến lang thang dằng dặc, tôi
Nằm bên bờ sông um tùm lau lách
Nghe trong giấc ngủ tiếng nước róc rách
Tôi lê cơn lười nhác được ru êm
Bởi bản hợp xướng tuyệt vời của chim
Từ thung lũng cao đàn bồ câu trắng
Xuất hiện với những vòng hoa thơm ngát
Từ đảo Chypre thần Vệ nữ hái về
Và đàn ong bay đến rồi bất ngờ
Tôi bị vây trong tiếng đập của cánh
Cổ tay tôi chúng choàng hoa sặc sỡ
Và đầu tôi cánh hoa sim ngát hương
Chúng nâng tôi bay bổng trong không gian
Qua các tầng mây đặt tôi trên thảm
Lá bông hồng đu đưa làn gió thoảng
Đến nhà mẹ đàn bồ câu vội vàng
Bay dưới mái một chốn ở êm đềm
Trên chóp núi và đặt tôi xuống đấy
Để tôi thức giấc. Ôi tổ chim ấm
Vai tôi và toàn thân tôi bừng lên
Trong vầng hào quang sáng láng trắng tinh
Ánh chói thuần tuý, không như ánh sáng
Lẫn với bóng đêm che mờ sự vật
Đã không còn là ánh sáng của trời
Một thần linh nào toàn năng trong tôi
Bỗng hiển lộ vàtung ra uy lực
Tột cùng như một làn sóng liên tục
Trong lúc đó đàn chim rủ nhau về
Mỏ ngậm vòng nguyệt quế bện tinh vi
Như vật trang trí thần Apollon vẫn
Vuốt ve lên những sợi dây màu nhiệm
Bầu trời bỗng rộng mở và đột nhiên
Thật kỳ diệu, tôi tưởng đâu trông thấy
Bay trên đám mây vàng thần Phoebus
Trao cho tôi cây đàn lia tuyệt vời
Bằng lửa thần người khắc trên trán tôi
Những từ này: “Ngươi sẽ là thi sĩ!”
Tôi nghe hơi ấm ngập tràn thân thể
Làn nước trong chói lọi tự suối nguồn
Và đỏ rực trong ánh sáng vầng dương
Rồi đàn bồ câu thay hình đổi dạng
Và các nàng thơ hiện ra cùng hát
Những giai điệu thật ngọt ngào, thế rồi
Họ âu yếm nâng tôi lên tận trời
Họ xướng lời tiên tri trong ba hiệp
Và choàng lên trán tôi vòng nguyệt quế

Cảm giác Sensation

Par les soirs bleus d’été, j’irai dans les sentiers,
Picoté par les blés, fouler l’herbe menue :
Rêveur, j’en sentirai la fraîcheur à mes pieds.
Je laisserai le vent baigner ma tête nue.
Je ne parlerai pas, je ne senserai rien :
Mais l’amour infini me montera dans l’âme,
Et j’irai loin, bien loin, common un bohémien,
Par la Nature, heureux comme avec une femmme.

Dịch

Buổi chiều xanh, trên những con đường nhỏ
Rảo bước chân trên hoa cỏ nhẹ nhàng
Mơ ước trong đầu, trên tóc ngọn gió
Tôi nhận ra hơi mát dưới bàn chân.
Không nghĩ suy, không lời trên môi lặng
Nhưng con tim yêu hết thảy trên đời
Và ngọt ngào trong hoàng hôn thơ thẩn
Thiên nhiên tựa hồ như người đẹp cùng tôi.

Cảnh bờ biển

Les chars d’argent et de cuivre —
Les proues d’acier et d’argent —
Battent l’écume, —
Soulèvent les souches des ronces —
Les courants de la lande,
Et les ornières immenses du reflux,
Filent circulairement vers l’est,
Vers les piliers de la forêt, —
Vers les fûts de la jetée,
Dont l’angle est heurté par des tourbillons de lumière.

Dịch

Những cỗ xe trắng bạc và ánh đồng
Những mũi tàu ánh thép và trắng bạc
Đập vào bọt sóng
Cuốn lên những gốc vân tròn
Những luồng của truông
Và những vết mênh mông triều xuống
Chạy vòng về phía tây
Về những cột trụ của rừng
Về những thân cột của đê chắn sóng
Nơi góc đê những cơn lốc ánh sáng đập va

Cầu khăn thần Vệ nữ

Mère des fils d’énée, ô délices des Dieux,
Délices des mortels, sous les astres des cieux,
Vénus, tu peuples tout: l’onde où court le navire,
Le sol fécond: par toi tout être qui respire
Germe, se dresse, et voit le soleil lumineux!
Tu parais… A l’aspect de ton front radieux
Disparaissent les vents et les sombres nuages:
L’Océan te sourit; fertile en beaux ouvrages,
La Terre étend les fleurs suaves sous tes pieds;
Le jour brille plus pur sous les cieux azurés!
Dès qu’Avril reparaît, et, qu’enflé de jeunesse,
Prêt à porter à tous une douce tendresse,
Le souffle du zéphir a forcé sa prison,
Le peuple aérien annonce ta saison:
L’oiseau charmé subit ton pouvoir, ô Déesse;
Le sauvage troupeau bondit dans l’herbe épaisse,
Et fend l’onde à la nage, et tout être vivant,
À ta grâce enchaîné, brûle en te poursuivant!
C’est toi qui, par les mers, les torrents, les montagnes,
Les bois peuplés de nids et les vertes campagnes,
Versant au coeur de tous l’amour cher et puissant,
Les portes d’âge en âge à propager leur sang!
Le monde ne connaît, Vénus, que ton empire!
Rien ne pourrait sans toi se lever vers le jour:
Nul n’inspire sans toi, ni ne ressent d’amour!
À ton divin concours dans mon oeuvre j’aspire!…

Dịch

Mẹ của Enée, niềm vui Thượng đế
Niềm vui con người dưới bóng thiên thể
Thần Vệ nữ, người đem lại mọi điều
Sóng cho tàu chạy, mặt đất phì nhiêu
Nhờ ơn người mọi vật thể biết thở
Đã nảy mầm, vươn lên và trông thấy
Vầng dương rực rỡ! Người xuất hiện và
Tan biến những gió bão cùng mây mù
Đại dương mỉm cười, trái đất màu mỡ
Trải dưới chân người hoa thơm cỏ lạ
Ánh sáng càng thuần khiết dưới trời xanh
Tháng tư lại về, chan chứa thanh xuân
Chực mang lại cho mọi người vị ngọt
Làn gió nhẹ đã phá tan tù ngục
Cư dân không trung báo hiệu mùa người
Dưới quyền năng của người, chim ngất ngây
Đàn thú hoang rủ nhau chạy trong cỏ
Và rẽ sóng bơi nhanh và tất cả
Bị chinh phục bởi vẻ đẹp của người
Nô nức theo người không một bước rời
Qua bao biển cả, thác ghềnh, đồi núi
Bao đồng ruộng xanh tươi, rừng đầy tổ
Chính người đã rót vào mọi trái tim
Mật ngọt tình yêu mãnh liệt thân thương
Để dòng máu đời đời truyền lưu mãi
Thần Vệ nữ, thế giới chỉ biết tới
Vương quốc của người thôi! Không có người
Chẳng vật gì vươn tới ánh mặt trời
Không có người, chẳng ai cảm nhận được
Tình yêu! Tôi hằng mong sự cộng tác
Thần thánh của người trong tác phẩm tôi

Con tàu say

Comme je descendais des Fleuves impassibles,
Je ne me sentis plus guidé par les haleurs:
Des Peaux-Rouges criards les avaient pris pour cibles
Les ayant cloués nus aux poteaux de couleurs.
J’étais insoucieux de tous les équipages,
Porteur de blés flamands ou de cotons anglais.
Quand avec mes haleurs ont fini ces tapages
Les Fleuves m’ont laissé descendre où je voulais.
Dans les clapotements furieux des marées
Moi l’autre hiver plus sourd que les cerveaux d’enfants,
Je courus ! Et les Péninsules démarrées
N’ont pas subi tohu-bohus plus triomphants.
La tempête a béni mes éveils maritimes.
Plus léger qu’un bouchon j’ai dansé sur les flots
Qu’on appelle rouleurs éternels de victimes,
Dix nuits, sans regretter l’oeil niais des falots!
Plus douce qu’aux enfants la chair des pommes sures,
L’eau verte pénétra ma coque de sapin
Et des taches de vins bleus et des vomissures
Me lava, dispersant gouvernail et grappin
Et dès lors, je me suis baigné dans le Poème
De la Mer, infusé d’astres, et lactescent,
Dévorant les azurs verts ; où, flottaison blême
Et ravie, un noyé pensif parfois descend;
Où, teignant tout à coup les bleuités, délires
Et rythmes lents sous les rutilements du jour,
Plus fortes que l’alcool, plus vastes que nos lyres,
Fermentent les rousseurs amères de l’amour!
Je sais les cieux crevant en éclairs, et les trombes
Et les ressacs et les courants : Je sais le soir,
L’aube exaltée ainsi qu’un peuple de colombes,
Et j’ai vu quelque fois ce que l’homme a cru voir!
J’ai vu le soleil bas, taché d’horreurs mystiques,
Illuminant de longs figements violets,
Pareils à des acteurs de drames très-antiques
Les flots roulant au loin leurs frissons de volets!
J’ai rêvé la nuit verte aux neiges éblouies,
Baiser montant aux yeux des mers avec lenteurs,
La circulation des sèves inouïes,
Et l’éveil jaune et bleu des phosphores chanteurs!
J’ai suivi, des mois pleins, pareille aux vacheries
Hystériques, la houle à l’assaut des récifs,
Sans songer que les pieds lumineux des Maries
Pussent forcer le mufle aux Océans poussifs!
J’ai heurté, savez-vous, d’incroyables Florides
Mêlant aux fleurs des yeux de panthères à peaux
D’hommes ! Des arcs-en-ciel tendus comme des brides
Sous l’horizon des mers, à de glauques troupeaux!
J’ai vu fermenter les marais énormes, nasses
Où pourrit dans les joncs tout un Léviathan!
Des écroulement d’eau au milieu des bonaces,
Et les lointains vers les gouffres cataractant!
Glaciers, soleils d’argent, flots nacreux, cieux de braises!
Échouages hideux au fond des golfes bruns
Où les serpents géants dévorés de punaises
Choient, des arbres tordus, avec de noirs parfums!
J’aurais voulu montrer aux enfants ces dorades
Du flot bleu, ces poissons d’or, ces poissons chantants.
Des écumes de fleurs ont bercé mes dérades
Et d’ineffables vents m’ont ailé par instants.
Parfois, martyr lassé des pôles et des zones,
La mer dont le sanglot faisait mon roulis doux
Montait vers moi ses fleurs d’ombre aux ventouses jaunes
Et je restais, ainsi qu’une femme à genoux…
Presque île, balottant sur mes bords les querelles
Et les fientes d’oiseaux clabaudeurs aux yeux blonds
Et je voguais, lorsqu’à travers mes liens frêles
Des noyés descendaient dormir, à reculons!
Or moi, bateau perdu sous les cheveux des anses,
Jeté par l’ouragan dans l’éther sans oiseau,
Moi dont les Monitors et les voiliers des Hanses
N’auraient pas repêché la carcasse ivre d’eau;
Libre, fumant, monté de brumes violettes,
Moi qui trouais le ciel rougeoyant comme un mur
Qui porte, confiture exquise aux bons poètes,
Des lichens de soleil et des morves d’azur,
Qui courais, taché de lunules électriques,
Planche folle, escorté des hippocampes noirs,
Quand les juillets faisaient crouler à coups de triques
Les cieux ultramarins aux ardents entonnoirs;
Moi qui tremblais, sentant geindre à cinquante lieues
Le rut des Béhémots et les Maelstroms épais,
Fileur éternel des immobilités bleues,
Je regrette l’Europe aux anciens parapets!
J’ai vu des archipels sidéraux! et des îles
Dont les cieux délirants sont ouverts au vogueur:
Est-ce en ces nuits sans fond que tu dors et t’exiles,
Million d’oiseaux d’or, ô future Vigueur? –
Mais, vrai, j’ai trop pleuré! Les Aubes sont navrantes.
Toute lune est atroce et tout soleil amer:
L’âcre amour m’a gonflé de torpeurs enivrantes.
Ô que ma quille éclate! Ô que j’aille à la mer!
Si je désire une eau d’Europe, c’est la flache
Noire et froide où vers le crépuscule embaumé
Un enfant accroupi plein de tristesses, lâche
Un bateau frêle comme un papillon de mai.
Je ne puis plus, baigné de vos langueurs, ô lames,
Enlever leur sillage aux porteurs de cotons,
Ni traverser l’orgueil des drapeaux et des flammes,
Ni nager sous les yeux horribles des pontons.

Dịch

Tôi bước xuống những dòng sông bình lặng
Không còn những người kéo thuyền hướng dẫn
Bọn da đỏ đã dùng họ làm bia
Khi đã đóng họ vào cột tô màu
Tôi vô tư với mọi đoàn thuỷ thủ
Vác gạo xứ Flandre hoặc bông nước Anh
Hết đám kéo thuyền, hết cơn huyên náo
Những dòng sông cứ để tôi mặc tình
Trong tiếng thuỷ triều bập bềnh giận dữ
Mùa đông nào, điếc hơn óc trẻ nhỏ
Tôi chạy miết! Những bán đảo bứt đi
Trong hỗn độn với niềm vui tràn bờ
Tôi thức giấc có giông tố chúc lành
Tôi nhảy múa nhẹ tênh trên sóng nước
Như bước lang thang muôn thuở tròng trành
Mắt đèn lồng mười đêm liền chẳng tiếc
Ngọt hơn táo ngập răng trẻ nhỏ
Làn nước xanh tràn ngập cả vỏ tàu
Rửa sạch trơn vết rượu và nôn mửa
Nào bánh lái, nào neo móc vất bừa
Tôi đã tắm trong bài thơ biển cả
Trắng màu sữa và lấp lánh thiên thể
Đang ngấu nghiến màu trời xanh, và nơi
Đường mớn nước đôi lúc một xác người
Nơi bất chợt nhuốm xanh, những mê cuồng
Và nhịp chậm dưới ánh sáng đỏ lựng
Mạnh hơn rượu, bát ngát hơn cung đàn
Sục sôi màu đỏ tình yêu cay đắng
Bầu trời vỡ vụn và những cầu vồng
Sóng dồi và hải lưu: tôi biết tới
Chiều, rồi bình minh trắng xoá mênh mông
Và đã thấy điều tưởng đâu đã thấy
Mặt trời thấp trong kinh hoàng thần bí
Ánh lên những tia máu tím ngát, và
Những làn sóng run rẩy cuốn đi xa
Trông chẳng khác diễn viên kịch cổ đại
Tôi đã mơ đêm xanh tuyết sáng choang
Chầm chậm nụ hôn dâng lên mắt biển
Sự lan truyền những dòng nhựa lạ thường
Và rực vàng, xanh, lân tinh ca hát
Tôi mãi dõi theo những đợt sóng lừng
Trên đá ngầm như đàn bò điên loạn
Không biết các vùng Marie lấp lánh
Có thể đẩy mõm đất tới đại dương
Đụng phải những vùng Floride khủng khiếp
Lẫn với hoa là mắt báo da người
Và lẫn với những đàn thú màu lục
Lớp lớp cầu vồng sát dưới chân trời
Chợt náo động những đầm lầy mênh mông
Trong đám bấc rã mục xác Léviathan
Nước xối xả giữa những nơi lặng gió
Và xa xa phía vực sâu thác đổ
Sông băng, mặt trời bạc, sóng xà cừ
Bầu trời than hồng, vũng cạn gớm ghiếc
Nơi rắn khổng lồ làm mồi cho rệp
Cây cối gãy đổ, mùi hắc mù trời
Muốn chỉ đàn em nhỏ loài cá tráp
Trong làn sóng xanh, cá vàng, cá hát
Rời vũng tàu, bọt hoa ru bước tôi
Và từng chập gió chắp cánh tôi bay
Bước lãng du đôi khi phải mệt lả
Trôi tròng trành trong tiếng khóc biển cả
Dâng lên tôi những bông hoa âm u
Tôi ở lại, như một người nữ đang quỳ
Như hòn đảo đu đưa lời tranh cãi
Và phân loài chim lắm chuyện mắt vàng
Và tôi lướt đi, mắt mơ hồ thấy
Người chết đuối bước lùi xuống, ngủ yên
Tôi, con tàu dưới lớp tảo chằng chịt
Bị bão ném vào không trung lặng ngắt
Và các tàu buồm và tàu tuần tra
Chẳng buồn vớt bộ khung say xỉn nước
Trên mù tím nhả khói lướt băng băng
Tôi xuyên thủng bức tường bầu trời đỏ
Mang mũi dãi trời, địa y vầng dương
Mứt kẹo ngon cho các nhà thơ lớn
Tôi chạy, tia điện lỗ chỗ người tôi
Tấm ván điên đàn ngư mã hộ tống
Những tháng bảy quất gậy cho đổ sụp
Bầu trời hải ngoại mớ phễu sục sôi
Tôi run rẩy, cách năm mươi hải lý
Ngựa biển động đực, những cơn xoáy dày
Những bất động xanh tháo cuộn dài dài
Tiếc Châu Âu với lan can cũ kỹ
Tôi đã thấy những quần đảo sao trời
Và những đảo, với bầu trời điên loạn
Triệu cánh chim vàng, sức mạnh tương lai
Vẫn lưu đày trong đêm dài vô tận
Tôi đã khóc nhiều! Bình minh chán ngán
Chị Hằng khốc liệt, vầng dương đắng cay
Tình yêu làm tôi đờ đẫn ngất ngây
Xương cốt vỡ vụn, thà vùi trong biển
Một làn nước Châu Âu tôi khát vọng
Đó là vũng nước đen ngòm, lạnh cóng
Buổi chiều ngát hương một chú bé buồn
Thả con tàu như cánh bướm tháng năm
Mệt rồi, sóng biển, thôi ta không thể
Cứ bám theo tàu chở bông ngược xuôi
Đi qua niềm kiêu hãnh những lá cờ
Lội dưới những con mắt tàu khủng khiếp

Đêm đầu tiên

Elle était fort déshabillée
Et de grands arbres indiscrets
Aux vitres jetaient leur feuillée
Malinement, tout près, tout près.
Assise sur ma grande chaise,
Mi-nue, elle joignait les mains,
Sur le plancher frissonnaient d’aise
Ses petits pieds si fins, si fins.
Je regardai, couleur de cire,
Un petit rayon buissonnier
Papillonner dans son sourire
Et sur son sein, mouche au rosier.
Je baisai ses fines chevilles.
Elle eut un doux rire brutal
Qui s’égrenait en claires trilles,
Un joli rire de crystal.
Les petits pieds sous la chemise
Se sauvèrent: “Veux-tu finir!”
La première audace permise,
Le rire feignait de punir!
Pauvrets palpitants sous ma lèvre,
Je baisai doucement ses yeux:
Elle jeta sa tête mièvre
En arrière: “Oh! C’est encor mieux!…
Monsieur, j’ai deux mots à te dire…”
Je lui jetai le reste au sein
Dans un baiser, qui la fait rire
D’un bon rire qui voulait bien…
Elle était fort déshabillée
Et de grands arbres indiscrets
Aux vitres jetaient leur feuillée
Malinement, tout près, tout près.

Dịch

Áo nàng trể xuống làn hông
Cây cao vươn lá ngoài song thầm thì
Xuyên qua khung kính nhòm chi
Bóng cây sàm sỡ đã ghì sát nhau
Nàng ngồi trên ghế dựa cao
Nữa thân để lộ biết bao nhiêu tình
Hai tay khẻ chắp bên mình
Hai bàn chân nhỏ hữu tình làm sao
Mầu da sáp mịn ngọt ngào
Lung linh tia sáng dọi vào cành tươi
Chập chờn cánh bướm môi cuời
Trên bồng ngực đó lả lơi nụ hồng
Tôi hôn chân nhỏ tình nồng
Tiếng cuời nàng chợt vở tung mãnh tình
Tiếng cuời thánh thót xinh xinh
Thủy tinh trong vắt giọng tình véo von
Đôi bàn chân nhỏ thon thon
Dấu trong vạt áo như còn thiết tha
Buớc đầu bạo dạn đã qua
Giọng cười như thể phạt vờ đấy thôi
Đôi mi chớp mở dưới môi
Tôi hôn đôi mắt lả lơi sóng tình
Ngã đầu nàng nũng nịu xin:
“Thế ni còn thích hơn mình đã yêu…
Nầy anh! Thôi, chẳng nói nhiều…”
Ngực nàng chữa dứt lời yêu nồng nàn
Nụ hôn tôi đã rộn ràng
Nàng cười quyến rũ ngập tràn ái ân.
Áo nàng trể xuống làn hông
Cây cao vươn lá ngoài song thầm thì
Xuyên qua khung kính nhòm chi
Bóng cây sàm sỡ đã ghì sát nhau

Lo sống

Noirs dans la neige et dans la brume,
Au grand soupirail qui s’allume,
Leurs culs en rond,
À genoux, cinq petits, – misère! –
Regardent le boulanger faire
Le lourd pain blond…
Ils voient le fort bras blanc qui tourne
La pâte grise, et qui l’enfourne
Dans un trou clair.
Ils écoutent le bon pain cuire.
Le boulanger au gras sourire
Chante un vieil air.
Ils sont blottis, pas un ne bouge,
Au souffle du soupirail rouge,
Chaud comme un sein.
Et quand pendant que minuit sonne,
Façonné, pétillant et jaune,
On sort le pain;
Quand, sous les poutres enfumées,
Chantent les croûtes parfumées,
Et les grillons;
Quand ce trou chaud souffle la vie;
Ils ont leur âme si ravie
Sous leurs haillons,
Ils se ressentent si bien vivre,
Les pauvres petits plein de givre,
Qu’ils sont là, tous,
Collant leur petits museaux roses
Au grillage, chantant des choses,
Entre les trous,
Mais bien bas, – comme une prière….
Repliés vers cette lumière
Du ciel rouvert,
Si fort, qu’ils crèvent leur culotte,
Et que leur lange blanc tremblotte
Au vent d’hiver…..

Dịch

Mấy em bé da đen
Gội sương mù tuyết trắng
Trước cửa lò nướng bánh
Cúi khom lưng
Năm em bé đau thương
Gối quỳ, nhìn đăm đắm
Người thợ đang làm bánh
Chiếc bánh nặng vàng hoe
Cánh tay khoẻ trắng to
Nhào lăn bột mì xám
Đưa bột vào lò bánh
Lửa sáng lập loè
Các em bé lắng nghe
Bánh mì đang chín tới
Người thợ cười xởi lởi
Lầm bầm điệu nhạc xưa
Các em bé co ro
Không em nào cử động
Đón hơi lò toả nóng
Ấm như một tấm lòng
Khi đêm có tiệc tùng
Cho ra lò chiếc bánh
Trông như là bánh nướng
Thật ngon
Dưới xà nhà đen đen
Vỏ bánh thơm lách tách
Chú dế mèn ca hát
Hoà âm
Khi bếp toả hơi nồng
Như tiếp thêm nguồn sống
Chúng vô cùng sung sướng
Dưới manh áo tả tơi
Chúng thấy đời đẹp sao
Những Giêxu tội nghiệp
Mình phủ đầy sương tuyết
Đến tụ tập nơi đây
Dán miệng nhỏ đỏ hây
Lên trên giàn lưới chắn
Khẽ nói gì lẩm bẩm
Qua mắt cáo rào ngăn
Lũ trẻ quá lăng xăng
Ráng cúi mình cầu khẩn
Hướng về nguồn ánh sáng
Loé lại chốn Thiên đường
Chúng cúi mạnh quá chừng
Nên quần đùi rách toạc
Áo mỏng run cầm cập
Trước gió lạnh mùa đông

Arthur Rimbaud là một nhà thơ vang danh của nước Pháp. Với tài năng và sự tinh tế những bài thơ ông được mọi người đánh giá cao và vẹn nguyên giá trị đến hiện nay. Dù chặng đường thơ ca không dài nhưng những thi phẩm của ông luôn được ca tụng và lưu truyền đến hiện nay.

Tagged: