Tào Tuyết Cần (1715 ~ 1724 – 1763 ~ 1764), tên thật là Tào Triêm, tự là Mộng Nguyễn , hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê, là một tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, một trong tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Quốc. Tổ tiên ông vốn là người Hán ở Liêu Dương, sau đó tổ xa của ông là Tào Tuấn quy hàng Mãn Châu, nhập tịch Mãn tộc.

Hồng Lâu Mộng là một tác phẩm nổi tiếng của ông tác phẩm văn học theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện thực, phê phán mạnh mẽ hệ thống xã hội phong kiến đang lúc suy tàn. Hồng Lâu Mộng chủ yếu miêu tả bi kịch tình yêu hôn nhân giữa ba nhân vật là Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc và Tuyết Bảo Thoa, để phản ánh sự hưng vong của giai cấp phong kiến đương thời. Đây cũng chính là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông lúc bấy giờ. Hãy cùng tapchivannghe.com khám phá phần cuối của tập thơ này nhé!

Phù dung nữ nhi luỵ 芙蓉女兒誄

天何如是之蒼蒼兮,
乘玉虯以遊乎穹窿耶?
地何如是之茫茫兮,
駕瑤象以降乎泉壤耶?
望傘蓋之陸離兮,
抑箕尾之光耶?
列羽葆而為前導兮,
衛危虛于傍耶?
驅豐隆以為庇從兮,
望舒月以臨耶?
聽車軌而伊軋兮,
御鸞鷖以征耶?
聞馥郁而飄然兮,
紉蘅杜以為纕耶?
斕裙裾之爍爍兮,
鏤明月以為璫耶?
借葳蕤而成畤兮,
檠蓮焰以燭蘭膏耶?
文瓠匏以為觶斝兮,
灑醽醁以浮桂醑耶?
瞻雲氣而凝眸兮,
仿佛有所覘耶?
俯波痕而居耳兮,
恍惚有所聞耶?
期汗漫而無際兮,
忍捐棄予于塵埃耶?
倩風廉之為余驅車兮,
冀聯轡而攜歸耶?
余中心為之慨然兮,
徒噭噭而何為耶?
卿偃然而長寢兮,
豈天運之變于斯耶?
既窀穸且安穩兮,
反其真而又奚化耶?
余猶桎梏而懸附兮,
靈格余以嗟來耶?
來兮止兮,
卿其來耶?
若夫鴻蒙而居,
寂靜以處,
雖臨于茲,
余亦莫睹。
搴煙蘿而為步障,
列菖蒲而森行伍。
警柳眼之貪眠,
釋蓮心之味苦。
素女約于桂岩,
宓妃迎蘭渚。
弄玉吹笙,
寒簧擊敔。
征嵩嶽之妃,
啟驪山之姥。
龜呈洛浦之靈,
獸作咸池之舞。
潛赤水兮龍吟,
集珠林兮鳳者翥。
爰格爰誠,
匪簠匪莒。
發軔乎霞誠,
還旌乎玄圃。
既顯微而若通,
復氤氳而倏阻。
離合兮煙雲,
空蒙兮霧雨。
塵霾斂兮星高,
溪山麗兮月午。
何心意之怦怦,
若寤寐之栩栩?
余乃欷歔悵怏,
泣涕徬徨。
人語兮寂歷,
天籟兮篔簹。
鳥驚散而飛,
魚唼喋以響。
志哀兮是禱,
成禮兮期祥。
嗚呼!哀哉!
尚饗!

Phù dung nữ nhi luỵ

Thiên hà như thị chi thương thương hề,
Thừa ngọc cầu dĩ du hồ khung lung da?
Địa hà như thị chi mang mang hề,
Giá dao tượng dĩ giáng hồ tuyền nhuỡng da?
Vọng tản cái chi lục ly hề,
Ức Cơ, Vĩ chi quang da?
Liệt vũ bảo nhi vi tiền đạo hề,
Vệ Nguy hư vu bàng da?
Khu phong long dĩ vi tý tòng hề,
Vọng thư nguyệt dĩ lâm da?
Thính xa quỹ nhi y yết hề,
Ngự loan ê dĩ chinh da?
Văn phức uất nhi phiêu nhiên hề,
Nhận hành đỗ dĩ vi nhương da?
Lan quần cư chi thước thước hề,
Lũ minh nguyệt dĩ vi đương da?
Tá uy nhuy nhi thành trĩ hề,
Kềnh liên diễm dĩ chúc lan cao da?
Văn hồ bào dĩ vi chí giả hề,
Sái linh lục dĩ phù quế tữ da?
Chiêm vân khí nhi ngưng mâu hề,
Phỏng phật hữu sở chiêm da?
Phủ ba ngân nhi cư nhĩ hề,
Hoảng dịch hữu sở văn da?
Kỳ hãn mạn nhi vô tế hề,
Nhẫn quyên khí dư vu trần ai da?
Thiến phong liêm chi vi dư khu xa hề,
Ký liên bí nhi huề quy da?
Dư trung tâm vi chi khái nhiên hề,
Đồ khiếu khiếu nhi hà vi da?
Khanh yển nhiên nhi trường tẩm hề,
Khởi thiên vận chi biến vu tư da?
Ký truân tịch thả an ổn hề,
Phản kỳ chân nhi hựu hề hoá da?
Dư do trất cốc nhi huyền phụ hề,
Linh cách dư dĩ ta lai da?
Lai hề chỉ hề,
Khanh kỳ lai da?
Nhược phu hồng mông nhi cư,
Tịch tĩnh dĩ xứ,
Tuy lâm vu tư,
Dư diệc mạc đổ.
Khiên yên la nhi vi bộ chướng,
Liệt xương bồ nhi sâm hàng ngũ.
Cảnh liễu nhãn chi tham miên,
Thích liên tâm chi vị khổ.
Tố nữ ước vu quế nham,
Bật phi nghinh lan chử.
Lộng Ngọc xuy sinh,
Hàn hoàng kích ngữ.
Chinh Tung Nhạc chi phi,
Khởi Ly Sơn chi mụ.
Quy trình Lạc phố chi linh,
Thú tác Hàm trì chi vũ.
Tiềm Xích thuỷ hề long ngâm,
Tập Châu lâm hề phụng giả chứ.
Viên cách viên thành,
Phỉ phủ phỉ cử.
Phát nhận hồ Hà thành,
Hoàn tinh hồ Huyền phố.
Ký hiển vi nhi nhược thông,
Phúc nhân uân nhi thúc trở.
Ly hợp hề yên vân,
Không mông hề vụ vũ.
Trần mai liễm hề tinh cao,
Khê sơn lệ hề nguyệt ngọ.
Hà tâm ý chi phanh phanh,
Nhược ngụ mị chi hủ hủ?
Dư nãi hy hư trướng ưởng,
Khấp thế bàng hoàng.
Nhân ngữ hề tịch lịch,
Thiên lại hề vân đương.
Điểu kinh tán nhi phi,
Ngư xiệp điệp dĩ hưởng.
Chí ai hề thị đảo,
Thành lễ hề kỳ tường.
Ô hô! Ai tai!
Thượng hưởng!

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 1 賦得紅梅花其一

桃未芳菲杏未紅,
衝寒先喜笑東風。
魂飛庾嶺春難辨,
霞隔羅浮夢未通。
綠萼添妝融寶炬,
縞仙扶醉跨殘虹。
看來豈是尋常色,
濃淡由他冰雪中。

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 1

Đào vị phương phi hạnh vị hồng,
Xung hàn tiên hỉ tiếu đông phong.
Hồn phi Dữu lĩnh xuân nan biện,
Hà cách La Phù mộng vị thông.
Lục ngạc thiêm trang dung bảo cự,
Cảo tiên phù tuý khoá tàn hồng.
Khán lai khởi thị tầm thường sắc,
Nùng đạm do tha băng tuyết trung.

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 2 賦得紅梅花其二

白梅懶賦賦紅梅,
逞艷先迎醉眼開。
凍臉有痕皆是血,
酸心無恨亦成灰。
誤吞丹藥移真骨,
偷下瑤池脫舊胎。
江北江南春燦爛,
寄言蜂蝶漫疑猜。

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 2

Bạch mai lãn phú phú hồng mai,
Sính diễm tiên nghinh tuý nhãn khai.
Đông kiểm hữu ngân giai thị huyết,
Toan tâm vô hận diệc thành hôi.
Ngộ thôn đơn dược di chân cốt,
Thâu hạ dao trì thoát cựu thai.
Giang bắc giang nam xuân xán lạn,
Ký ngôn phong điệp mạn nghi sai.

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 3 賦得紅梅花其三

疏是枝條艷是花,
春妝兒女競奢華。
閑庭曲檻無餘雪,
流水空山有落霞。
幽夢冷隨紅袖笛,
遊仙香泛絳河槎。
前身定是瑤台種,
無復相疑色相差。

Phú đắc hồng mai hoa kỳ 3

Sơ thị chi điều diễm thị hoa,
Xuân trang nhi nữ cạnh xa hoa.
Nhàn đình khúc hạm vô dư tuyết,
Lưu thuỷ không sơn hữu lạc hà.
U mộng lãnh tuỳ hồng tụ địch,
Du tiên hương phiếm giáng hà tra.
Tiền thân định thị dao đài chủng,
Vô phục tướng nghi sắc tướng sai.

Quỷ hoạch từ – Giả Bảo Ngọc 姽嫿詞-賈寶玉

恒王好武兼好色,
遂教美女習騎射;
穠歌豔舞不成歡,
列陣挽戈為自得。
眼前不見塵沙起,
將軍俏影紅燈裡;
叱吒時聞口舌香;
霜矛雪劍嬌難舉。
丁香結子芙蓉條,
不繫明珠繫寶刀;
戰罷夜闌心力怯,
脂痕粉漬污鮫綃。
明年流寇走山東,
強吞虎豹勢如蜂;
王率天兵思剿減,
一戰再戰不成功;
腥風吹折隴中麥,
日照旌旗虎帳空。
青山寂寂水凘凘,
正是恒王戰死時;
雨淋白骨血染草,
月冷育昏鬼守屍。
紛紛將士只保身,
青州眼見皆灰塵;
不期忠義明閨閣,
憤起恒王得意人。
恒王得意數誰行?
姽嫿將軍林四娘;
號令秦姬驅趙女,
穠桃艷李臨疆場。
紡鞍有淚春愁重,
鐵甲無聲夜氣涼;
勝負自難先預定,
誓盟生死報前王。
賊勢猖獗不可敵,
柳折花殘血凝碧;
馬踐胭脂骨髓香,
魂依城郭家鄉隔。
星馳時報入京師,
誰家兒女不傷悲!
天子驚慌愁失守,
此時文武皆垂首。
何事文武立朝綱,
不及閨中林四娘?
我為四娘長嘆息,
歌成餘意尚傍徨!

Quỷ hoạch từ – Giả Bảo Ngọc

Hằng vương hiếu vũ kiêm hiếu sắc,
Toại giao mỹ nữ tập kỵ xạ.
Nùng ca diễm vũ bất thành hoan,
Liệt trận vãn qua vi tự đắc.
Nhãn tiền bất kiến trần sa khởi,
Tướng quân tiếu ảnh hồng đăng lý.
Sất tra thì văn khẩu thiệt hương,
Sương mâu tuyết kiếm kiều nan cử.
Đinh hương kết tử phù dung điều,
Bất hệ minh châu hệ bảo đao.
Chiến bãi dạ lan tâm lực khiếp,
Chi ngân phấn tí ô giao tiêu.
Minh niên lưu khấu khởi Sơn Đông,
Cường thôn hổ báo thế như phong.
Vương suất thiên binh tư tiễu giảm,
Nhất chiến tái chiến bất thành công.
Tinh phong xuy chiết lũng trung mạch,
Nhật chiếu tinh kỳ hổ trướng không.
Thanh sơn tịch tịch thuỷ ti ti,
Chính thị Hằng vương chiến tử thì.
Vũ lâm bạch cốt huyết nhiễm thảo,
Nguyệt lãnh dục hôn quỷ thủ thi.
Phân phân tướng sĩ chỉ bảo thân,
Thanh Châu nhãn kiến giai khôi trần.
Bất kỳ trung nghĩa minh khuê các,
Phẫn khởi Hằng vương đắc ý nhân.
Hằng vương đắc ý sổ thuỳ hàng?
Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương.
Hiệu lệnh Tần cơ khu Triệu nữ,
Nùng đào diễm lý lâm cương trường.
Phưởng yên hữu lệ xuân sầu trọng,
Thiết giáp vô thanh dạ khí lương.
Thắng phụ tự nan tiên dự định,
Thệ minh sinh tử báo tiền vương.
Tặc thế xương quyết bất khả địch,
Liễu chiết hoa tàn huyết ngưng bích.
Mã tiễn yên chi cốt tuỷ hương,
Hồn y thành quách gia hương cách.
Tinh trì thì báo nhập kinh sư,
Thuỳ gia nhi nữ bất thương bi!
Thiên tử kinh hoang sầu thất thủ,
Thử thì văn vũ giai thuỳ thủ
Hà sự văn vũ lập triều cương,
Bất cập khuê trung Lâm Tứ Nương!
Ngã vị Tứ Nương trường thán tức,
Ca thành dư ý thượng bàng hoàng.

Dịch nghĩa

Hằng vương thích võ nghệ lẫn thích sắc đẹp,
Nên để cho những người đẹp luyện tập cưỡi ngựa bắn cung.
Tiếng hát nồng thắm, điệu múa kiều diễm chưa lấy làm vui,
Chỉ có vác đòng bày trận mới là vừa ý.
Trước mắt không thấy cảnh cát bụi nổi lên,
Trong ánh đèn hồng đã soi bóng dáng tướng quân xinh đẹp.
Lúc hò reo, thấy miệng lưỡi đều thơm ngát.
Người yểu điệu khó nhấc nổi mâu sương kiếm tuyết.
Chuỗi hạt đinh hương, dây phù dung,
Chẳng buộc minh châu lại buộc đao.
Sau khi tập trận xong, giữa đêm tàn, trong lòng vẫn còn e sợ,
Son phấn hoen ướt làm ố lụa giao.
Năm sau có giặc nổi lên ở Sơn Đông,
Sức mạnh như nuốt luôn hổ báo, khí thế như đàn ong.
Vua (tức Hằng vương) thống suất binh trời đi dẹp loạn,
Giao chiến một trận, hai trận đều không thành công.
Cơn gió mang mùi tanh thổi gãy những thân lúa trong thung lũng,
Ánh mặt trời chiếu bóng tinh kỳ, trong hổ trướng trống không.
Núi xanh hoang lặng, nước chảy rì rì,
Chính là khi Hằng vương tử trận.
Mưa ướt đầm xương trắng, máu nhuộm cỏ,
Ánh trăng lạnh hầu như mờ đi, lũ quỷ canh xác chết.
Tướng sĩ đều hoang mang bối rối, chỉ biết giữ thân mình,
Trước mắt thấy Thanh Châu đều toàn tro bụi.
Ngờ đâu có người trung nghĩa làm sáng ngời chốn khuê các,
Người được Hằng vương yêu quý nổi giận đứng lên.
Được Hằng vương yêu quý đếm được mấy người?
Đó là Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương (cô Tứ họ Lâm).
Hiệu lệnh cho các cô gái Tần, dẫn đầu các cô gái Triệu,
Những đoá hoa đào thắm mận đẹp đi ra chốn chiến trường.
Trên yên ngựa bằng sợi xe rơi hạt lệ, mối sầu xuân mang nặng.
Áo giáp sắt lặng lẽ giữa khí trời khuya mát lạnh.
Chuyện thắng thua khó mà tính trước được,
Nhưng đã thề nguyền sống chết để báo đáp tiền vương.
Thế giặc còn mạnh mẽ không địch nổi,
Liễu gãy hoa tàn, máu đọng xanh biếc.
Chân ngựa giẫm đạp lên son phấn, xương tuỷ ngát mùi thơm.
Hồn vẫn phiêu dạt bên thành quách, xa chốn quê nhà.
Tin tức rong ruổi đưa vào kinh sư,
Không có nữ nhi nhà nào là không thấy thương xót!
Thiên tử kinh hoàng buồn bực nghe tin thất thủ,
Lúc ấy bá quan vănv ũ đều chỉ biết gục đầu.
Vì sao trong các quan văn vũ đứng giữa triều đình,
Không có ai bằng được Lâm Tứ Nương là người trong khuê các?
Ta vì Tứ Nương mà than thở mãi, khúc ca làm xong rồi,
Lòng dạ vẫn còn cảm thấy bàng hoàng.

Quỷ hoạch từ – Giả Hoàn 姽嫿詞-賈環

紅粉不知愁,
將軍意未休。
掩啼離繡幕,
抱恨出青州。
自謂酬王德,
詎能復寇仇?
誰題忠義墓,
千古獨風流!

Quỷ hoạch từ – Giả Hoàn

Hồng phấn bất tri sầu,
Tướng quân ý vị hưu.
Yểm đề ly tú mạc,
Bão hận xuất Thanh châu.
Tự vị thù vương đức,
Cự năng phục khấu cừu?
Thuỳ đề trung nghĩa mộ,
Thiên cổ độc phong lưu!

Quỷ hoạch từ – Giả Lan 姽嫿詞-賈蘭

姽嫿將軍林四娘,
玉為肌骨鐵為腸。
捐軀自報恒王後,
此日青州土亦香!

Quỷ hoạch từ – Giả Lan

Quỷ hoạch tướng quân Lâm Tứ Nương,
Ngọc vi cơ cốt thiết vi trường.
Quyên khu tự báo Hằng vương hậu,
Thử nhật thanh châu thổ diệc hương!

Tán Lâm Đại Ngọc 讚林黛玉

兩彎似蹙非蹙罥煙眉,
一雙似喜非喜含情目。
態生兩靨之愁,
嬌襲一身之病。
淚光點點,
嬌喘微微。
閑靜似嬌花照水,
行動如弱柳扶風。
心較比干多一竅,
病如西子勝三分。

Tán Lâm Đại Ngọc

Lưỡng loan tự xúc phi xúc quyến yên my,
Nhất song tự hỉ phi hỉ hàm tình mục.
Thái sinh lưỡng yếp chi sầu,
Kiều tập nhất thân chi bệnh.
Lệ quang điểm điểm,
Kiều suyễn vi vi.
Nhàn tĩnh tự kiều hoa chiếu thuỷ,
Hành động như nhược liễu phù phong.
Tâm giảo Tỷ Can đa nhất khiếu,
Bệnh như Tây Tử thắng tam phân.

Táng hoa từ 葬花詞

花謝花飛飛滿天,
紅消香斷有誰憐?
遊絲軟系飄春榭,
落絮輕粘扑繡帘。
閨中女兒惜春暮,
愁緒滿懷無著處,
手把花鋤出繡帘,
忍踏落花來復去?
柳絲榆莢自芳菲,
哪管桃飄與李飛,
桃李明年能再發,
明年閨中知有誰?
三月香巢初壘成,
梁間燕子太無情,
明年花發雖可啄,
卻不道人去梁空巢已傾。
一年三百六十日,
風刀霜劍嚴相逼,
明媚鮮妍能几時,
一朝漂泊難尋覓。
花開易見落難尋,
階前愁煞葬花人,
獨把花鋤偷洒淚,
洒上空枝見血痕。
杜鵑無語正黃昏,
荷鋤歸去掩重門,
青燈照壁人初睡,
冷雨敲窗被未溫。
怪儂底事倍傷神?
半為憐春半惱春,
憐春忽至惱忽去,
至又無言去不聞。
昨宵亭外悲歌發,
知是花魂與鳥魂?
花魂鳥魂總難留,
鳥自無言花自羞。
愿儂此日生雙翼,
隨花飛到天盡頭。
天盡頭!何處有香丘?
未若錦囊收艷骨,
一抔淨土掩風流,
質本潔來還潔去,
不教污淖陷渠溝。
爾今死去儂收葬,
未卜儂身何日喪?
儂今葬花人笑痴,
他年葬儂知是誰?
試看春殘花漸落,
便是紅顏老死時。
一朝春盡紅顏老,
花落人亡兩不知!

Táng hoa từ

Hoa tạ hoa phi, phi mãn thiên
Hồng tiêu hương đoạn hữu thuỳ liên
Du ti nhuyễn hệ phiêu xuân tạ
Lạc nhứ khinh triêm phốc tú liêm.
Khuê trung nữ nhi tích xuân mộ
Sầu tự mãn hoài vô thích xứ
Thủ bả hoa sừ xuất tú khuê
Nhẫn đạp lạc hoa lai phục khứ.
Liễu ti du giáp tự phương phi
Bất quản đào phiêu dữ lý phi
Đào lý minh niên năng tái phát
Minh niên khuê trung tri hữu thuỳ.
Tam nguyệt hương sào dĩ luỹ thành
Lương gian yến tử thái vô tình
Minh niên hoa phát tuy khả trác
Khước bất đạo nhân khứ lương không sào dã khuynh!
Nhất niên tam bách lục thập nhật
Phong đao sương kiếm nghiêm tương bức
Minh mị tiên nghiên năng kỷ thì
Nhất triêu phiêu bạc nan tầm mịch.
Hoa khai dị kiến lạc nan tầm
Giai tiền muộn sát táng hoa nhân
Độc ỷ hoa sừ lệ ám sái
Sái thượng không chi kiến huyết ngân.
Đỗ quyên vô ngữ chính hoàng hôn
Hà sừ quy khứ yểm trùng môn
Thanh đăng chiếu bích nhân sơ thuỵ
Lãnh vũ xao song bị vị ôn.
Quái nùng để sự bội thương thần
Bán vị liên xuân bán não xuân
Liên xuân hốt chí não hốt khứ
Chí hựu vô ngôn khứ bất văn
Tạc tiêu đình ngoại bi ca phát
Tri thị hoa hồn dữ điểu hồn
Hoa hồn điểu hồn tổng nan lưu
Điểu tự vô ngôn hoa tự tu
Nguyện nô hiếp hạ sinh song dực
Tuỳ hoa phi đáo thiên tẫn đầu
Thiên tẫn đầu, hà xứ hữu hương khâu?
Vị nhược cẩm nang thu diễm cốt
Nhất bồi tịnh thổ yểm phong lưu
Chất bản khiết lai hoàn khiết khứ
Bất giao ô náo hãm cừ câu.
Nhĩ kim tử khứ nùng thu táng
Vị bốc nùng thân hà nhật táng
Nùng kim táng hoa nhân tiếu si
Tha niên táng nùng tri thị thuỳ
Thí khán xuân tàn hoa tiệm lạc
Tiện thị hồng nhan lão tử thì
Nhất triêu xuân tận hồng nhan lão
Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri.

Thu song phong vũ tịch 秋窗風雨夕

秋花慘淡秋草黃,
耿耿秋燈秋夜長。
已覺秋窗秋不盡,
哪堪風雨助淒涼!
助秋風雨來何速!
驚破秋窗秋夢續。
抱得秋情不忍眠,
自向秋屏移淚燭。
淚燭搖搖箬短檠,
牽愁照恨動離情。
誰家秋院無風入?
何處秋窗無雨聲?
羅衾不奈秋風力,
殘漏聲催秋雨急。
連宵脈脈復颼颼,
燈前似伴離人泣。
寒煙小院轉蕭條,
疏竹虛窗時滴瀝。
不知風雨几時休,
已教淚洒窗紗濕。

Thu song phong vũ tịch

Thu hoa thảm đạm thu thảo hoàng
Cảnh cảnh thu đăng thu dạ trường
Dĩ giác thu song thu bất tận
Ná kham phong vũ trợ thê lương
Trợ thu phong vũ lai hà tốc
Kinh phá thu song thu mộng tục
Bão đắc thu tình bất nhẫn miên
Tự hướng thu bình di lệ chúc
Lệ chúc dao dao nhược đoản kềnh
Khiên sầu chiếu hận động ly tình
Thuỳ gia thu viện vô phong nhập?
Hà xứ thu song vô vũ thanh?
La khâm bất nại thu phong lực
Tàn lậu thanh thôi thu vũ cấp
Liên tiêu mạch mạch phục sưu sưu
Đăng tiền tự bạn ly nhân lập
Hàn yên tiểu viện chuyển tiêu điều
Sơ trúc hư song thì tích lịch
Bất tri phong vũ kỷ thì hưu
Dĩ giao lệ sái song sa thấp.

Dịch nghĩa

Hoa thu ảm đạm, cỏ thu vàng úa.
Ngọn đèn thu tịch mịch suốt đêm thu dài.
Vẫn biết bên song thu, thu còn dằng dặc,
Nhưng cảnh gió mưa thêm vẻ thê lương chịu làm sao nổi!
Gió mưa đượm vẻ thu đến sao nhanh quá,
Làm tan biến cả giấc mộng thu bên song thu của ta.
Chan chứa tình thu không nỡ ngủ,
Một mình ta đến bên bức bình phong thu để khơi thêm ngọn nến đang nhỏ lệ.
Ngọn nến lung linh hiu hắt trên chiếc đế đèn ngắn bằng tre,
Gợi thêm mối sầu, soi thêm mối hận, động thêm mối tình biệt ly.
Nhà ai trong viện thu chẳng có gió thổi vào?
Nơi nào bên song thu chẳng có tiếng mưa rơi?
Chăn là chẳng ngăn được gió thu thổi,
Tiếng nhỏ canh tàn giục mưa thu rơi nhanh.
Suốt đêm hết mưa rơi rả rích lại gió thổi ào ào.
Trước đèn ta cùng đứng lặng với những người xa nhau.
Trong viện nhỏ, khói lạnh phủ tiêu điều.
Ngoài song trống, khóm trúc thưa nước nhỏ tí tách.
Không biết gió mưa bao giờ mới dứt,
Mà đã làm lệ nhỏ ướt cả bức màn song.

Trào Chân Sĩ Ẩn 嘲甄士隱

慣養嬌生笑你癡,
菱花空對雪澌澌;
好防佳節元宵後,
便是煙消火滅時。

Trào Chân Sĩ Ẩn

Quán dưỡng kiều sinh tiếu nhĩ si,
Lăng hoa không đối tuyết ty ty;
Hảo phòng giai tiết nguyên tiêu hậu,
Tiện thị yên tiêu hoả diệt thì.

Trào ngoan thạch ảo tương 嘲頑石幻相

女媧煉石已荒唐,
又向荒唐演大荒。
失去本來真面目,
幻來新就臭皮囊。
好知運敗金無彩,
堪嘆時乖玉不光,
白骨如山忘姓氏,
無非公子與紅妝。

Trào ngoan thạch ảo tương

Nữ oa luyện thạch dĩ hoang đường,
Hựu hướng hoang đường diễn đại hoang.
Thất khứ bản lai chân diện mục,
Ảo lai tân tựu xú bì nang.
Hảo tri vận bại kim vô thái,
Kham thán thì quai ngọc bất quang,
Bạch cốt như sơn vong tính thị,
Vô phi công tử dữ hồng trang

Trung thu dạ Đại Quan viên tức cảnh 中秋夜大觀園即景

三五中秋夕,
清遊拟上元。
撒天箕斗灿,
匝地管弦繁。
幾處狂飛盞,
誰家不啟軒?
輕寒風剪剪,
良夜景暄暄。
爭餅嘲黃髮,
分瓜笑綠媛。
香新榮王桂,
色健茂金萱。
蠟燭輝瓊宴,
觥籌亂綺園。
分曹尊一令,
射覆聽三宣。
骰彩紅成點,
傳花鼓濫喧。
晴光搖院宇,
素彩接乾坤。
賞罰無賓主,
吟詩序仲昆。
構思時倚檻,
擬景或依門。
酒盡情猶在,
更殘樂已諼。
漸聞語笑寂,
空剩雪霜痕。
階露團朝菌,
庭姻斂夕梧。
秋湍瀉石髓,
風葉聚雲根。
寶婺情孤潔,
銀蟾氣吐吞。
藥經靈兔搗,
人向廣寒奔。
犯斗邀牛女,
乘槎訪帝孫。
盈虛輪莫定,
晦朔魄空存。
壺漏聲將涸,
窗燈焰已昏。
寒塘渡鶴影,
冷月葬詩魂。
香篆銷金鼎,
脂冰膩玉盆。
簫憎嫠婦泣,
衾倩侍兒溫。
空帳懸文鳳,
閑屏掩彩鴛。
露濃苔更滑,
霜重竹難捫。
猶步縈紆沼,
還登寂歷原。
石奇神鬼搏,
木怪虎狼蹲。
贔屭朝光透,
罘罳曉露屯。
振林千樹鳥,
啼谷一聲猿。
歧熟焉忘徑?
泉知不問涼。
鐘鳴攏翠寺,
雞唱稻香村。
有興悲何繼?
無愁意豈煩?
芳情只自遣,
雅趣向誰言!
徹旦休雲倦,
烹茶更細論!

Trung thu dạ Đại Quan viên tức cảnh

Tam ngũ trung thu tịch,
Thanh du nghĩ thượng nguyên.
Tản thiên Cơ, Đẩu xán,
Tạp địa quản huyền phồn.
Kỷ xứ cuồng phi trản,
Thuỳ gia bất khởi hiên?
Khinh hàn phong tiễn tiễn,
Lương dạ cảnh huyên huyên.
Tranh bính trào hoàng phát,
Phân qua tiếu lục viên.
Hương tân vinh vương quế,
Sắc kiện mậu kim huyên.
Lạp chúc huy quỳnh yến,
Quang trù loạn ỷ viên.
Phân tào tôn nhất lệnh,
Xạ phúc thính tam tuyên.
Đầu thái hồng thành điểm,
Truyền hoa cổ lạm huyên.
Tình quang dao viện vũ,
Tố thái tiếp càn khôn.
Thưởng phạt vô tân chủ,
Ngâm thi tự trọng côn.
Cấu tứ thời ỷ hạm,
Nghĩ cảnh hoặc y môn.
Tửu tận tình do tại,
Canh tàn lạc dĩ huyên.
Tiệm văn ngữ tiếu tịch,
Không thặng tuyết sương ngân.
Giai lộ đoàn triêu khuẩn,
Đình nhân liễm tịch ngô.
Thu thoan tả thạch tuỷ,
Phong diệp tụ vân căn.
Bảo Vụ tình cô khiết,
Ngân thiềm khí thổ thôn.
Dược kinh linh thố đảo,
Nhân hướng Quảng Hàn bôn.
Phạm đẩu yêu Ngưu nữ,
Thừa tra phỏng đế tôn.
Doanh hư luân mạc định,
Hối sóc phách không tồn.
Hồ lậu thanh tương hạc,
Song đăng diễm dĩ hôn.
Hàn đường độ hạc ảnh,
Lãnh nguyệt táng thi hồn.
Hương triện tiêu kim đỉnh,
Chỉ băng nhị ngọc bồn.
Tiêu tăng ly phụ khấp,
Khâm sảnh thị nhi ôn.
Không trướng huyền văn phụng,
Nhàn bình yểm thái uyên.
Lộ nùng đài cánh hoạt,
Sương trọng trúc nan môn.
Do bộ oanh hu chiểu,
Hoàn đăng tịch lịch nguyên.
Thạch kỳ thần quỷ bác,
Mộc quái hổ lang tồn.
Bí hí triêu quang thấu,
Phù ty hiểu lộ truân.
Chấn lâm thiên thụ điểu,
Đề cốc nhất thanh viên.
Kỳ thục yên vong kính?
Tuyền tri bất vấn lương.
Chung minh Lũng Thuý tự,
Kê xướng Đạo Hương thôn.
Hữu hứng bi hà kế?
Vô sầu ý khởi phiền?
Phương tình chỉ tự khiển,
Nhã thú hướng thuỳ ngôn!
Triệt đán hưu vân quyện,
Phanh trà canh tế luận!

Tử lăng châu ca 紫菱洲歌

池塘一夜秋風冷,
吹散芰荷紅玉影。
蓼花菱葉不勝愁,
重露繁霜壓纖梗。
不聞永晝敲棋聲,
燕泥點點污棋枰。
古人惜別憐朋友,
況我今當手足情。

Tử lăng châu ca

Trì đường nhất dạ thu phong lãnh,
Xuy tán kỵ hà hồng ngọc ảnh.
Lục hoa lăng diệp bất thăng sầu,
Trùng lộ phồn sương áp tiêm ngạnh.
Bất văn vĩnh trú xao kỳ thanh,
Yến nê điểm điểm ô kỳ bình.
Cổ nhân tích biệt liên bằng hữu,
Huống ngã kim đương thủ túc tình.

Tức cảnh liên cú ngũ ngôn bài luật nhất thủ, hạn “nhị tiêu” vận

一夜北風緊,
開門雪尚飄。
入泥憐潔白,
匝地惜瓊瑤。
有意榮枯草,
無心飾萎苕。
價高村釀熟,
年稔府粱饒。
葭動灰飛管,
陽回斗轉杓。
寒山已失翠,
凍浦不聞潮。
易挂疏枝柳,
難堆破葉蕉。
麝煤融寶鼎,
綺袖籠金貂。
光奪窗前鏡,
香黏壁上椒。
斜風仍故故,
清夢轉聊聊。
何處梅花笛?
誰家碧玉簫?
鰲愁坤軸陷,
龍鬥陣雲銷。
野岸回孤棹,
吟鞭指灞橋。
賜裘憐撫戍,
加絮念徵徭。
坳垤審夷險,
枝柯怕動搖。
皚皚輕趁步,
翦翦舞隨腰。
煮芋成新賞,
撒鹽是舊謠。
葦蓑猶泊釣,
林斧不聞樵。
伏象千峰凸,
盤蛇一徑遙。
花緣經冷聚,
色豈畏霜彫。
深院驚寒雀,
空山泣老鴞。
階墀隨上下,
池水任浮漂。
照耀臨清曉,
繽紛入永宵。
誠忘三尺冷,
瑞釋九重焦。
僵臥誰相問,
狂遊客喜招。
天機斷縞帶,
海市失鮫綃。
寂寞對臺謝,
清貧懷簞瓢。
烹茶冰漸沸,
煮酒葉難燒。
沒帚山僧掃,
埋琴稚子挑。
石樓閒睡鶴,
錦廚暖親貓。
月窟翻銀浪,
霞城隱赤標。
沁梅香可嚼,
淋竹醉堪調。
或濕鴛鴦帶,
時凝翡翠翹。
無風仍脈脈,
不雨亦瀟瀟。
欲志今朝樂,
憑詩祝舜堯。

Tức cảnh liên cú ngũ ngôn bài luật nhất thủ, hạn “nhị tiêu” vận

Nhất dạ bắc phong khẩn,
Khai môn tuyết thượng phiêu.
Nhập nê liên khiết bạch,
Tạp địa tích quỳnh dao.
Hữu ý vinh khô thảo,
Vô tâm sức nuy điều.
Giá cao thôn nhưỡng thục,
Niên nhẫm phủ lương nhiêu.
Hà động hôi phi quản,
Dương hồi Đẩu chuyển tiêu.
Hàn sơn dĩ thất thuý,
Đống phổ bất văn triều.
Dị quải sơ chi liễu,
Nan đôi phá diệp tiêu.
Xạ môi dung bảo đỉnh,
Ỷ tụ lung kim điêu.
Quang đoạt song tiền kính,
Hương niêm bích thượng tiêu.
Tà phong nhưng cố cố,
Thanh mộng chuyển liêu liêu.
Hà xứ mai hoa địch?
Thuỳ gia bích ngọc tiêu?
Ngao sầu khôn trục hãm,
Long đấu trận vân tiêu.
Dã ngạn hồi cô trạo,
Ngâm tiên chỉ bá kiều.
Tứ cừu liên phủ thú,
Gia nhứ niệm trưng dao.
Ao điệt thẩm di hiểm,
Chi kha phạ động dao.
Ngai ngai khinh sấn bộ,
Tiễn tiễn vũ tuỳ yêu.
Chử vu thành tân thưởng,
Tản diêm thị cựu dao.
Vi thoa do bạc điếu,
Lâm phủ bất văn tiều.
Phục tượng thiên phong đột,
Bàn xà nhất kính dao.
Hoa duyên kinh lãnh tụ,
Sắc khởi uý sương điêu.
Thâm viện kinh hàn tước,
Không sơn khấp lão hào.
Giai trì tuỳ thượng hạ,
Trì thuỷ nhậm phù phiêu.
Chiếu diệu lâm thanh hiểu,
Tân phân nhập vĩnh tiêu.
Thành vong tam xích lãnh,
Thuỵ thích cửu trùng tiêu.
Cương ngoạ thuỳ tương vấn,
Cuồng du khách hỉ chiêu.
Thiên cơ đoạn cảo đới,
Hải thị thất giao tiêu.
Tịch mịch đối đài tạ,
Thanh bần hoài đạm biều.
Phanh trà băng tiệm phí,
Chử tửu diệp nan thiêu.
Một trửu sơn tăng tảo,
Mai cầm trĩ tử thiêu.
Thạch lâu nhàn thuỵ hạc,
Cẩm trù noãn thân miêu.
Nguyệt quật phiên ngân lãng,
Hà thành ẩn xích tiêu.
Thấm mai hương khả tước,
Lâm trúc tuý kham điều.
Hoặc thấp uyên ương đới,
Thì ngưng phí thuý kiều.
Vô phong nhưng mạch mạch,
Bất vũ diệc tiêu tiêu.
Dục chí kim triêu lạc,
Bằng thi chúc Thuấn Nghiêu.

Dịch nghĩa

Một đêm gió bắc thổi mạnh
Mở cửa tuyết bay lên
Thương thay tinh khiết, trong sạch
Tiếc thay quỳnh dao bị rơi xuống đất
Có ý muốn cỏ héo tươi trở lại
Tưới mầm lụa thật là vô ích
Giá thịt ở thôn quê đã lên
Được mùa nên trong kho có khá nhiều thóc
Gió lay làm ống sậy bay
Sao Đẩu chuyển động trên trời
Núi lạnh màu xanh biếc đã nhạt dần
Không nghe tiếng nước triều dâng
Treo lưng chừng trên cành liễu
Khó đọng trên lá chuối rách,
Mùi xạ thơm đỉnh quý
Vạt áo lụa ủ vào điêu vàng
Ánh sáng trước song lấn át cả gương
Mùi thơm hoà quyện với mùi tiêu trên tường
Gió lạnh vẫn tạt ngang
Giấc mộng vẫn còn
Tiếng địch mai hoa ở nơi nào?
Nhà nào đang thổi tiêu bằng ngọc bích?
Nỗi sầu khó hãm lại được
Rồng đuổi nhau làm đám mây tan
Chiếc thuyền cô đơn đã về
Ngâm thơ roi chỉ chỗ cây cầu bá
Áo cừu tặng cho tướng ở nơi xa
Áo bông đưa cho lính chinh chiến
Kiến khéo lo việc xây tổ
Cành kia có vẻ đang lung lay
Bước đường đã nhẹ nhàng
Uốn lưng mà múa may
Nhiều lúc thưởng thức trà đắng
Rắc muối nhớ lời cũ
Khoác áo tơi,buông cần câu
Không nghe tiếng tiêu vọng qua rừng
Voi quỳ nghìn ngọn gió
Một đường rắn lượn đằng xa
Hoa mới nở sợ trời lạnh
Sắc không sợ sương sa
Trong nhà sâu,chim sẻ sợ lạnh
Cú già khóc trong núi
Trên thềm tuỳ ý lên xuống
Nước ao nổi bồng bềnh
Ánh sáng trong chiếu lúc sáng sớm
Đêm khuya đã bay cao
Lòng thành không biết lạnh dù tuyết dày ba thước
Điềm lành xua nóng vào chín tầng mây
Đang nằm, ai hỏi nhau
Ngông có khách đi cùng thì vui
Trên trời, dây đai bị đứt
Chợ biển mất lụa giao
Sự vắng vẻ khi ngắm cảnh lầu
Nhà nghèo phí công đan bầu rượu
Trà mới pha đã gần sôi
Củi đang tươi khó nấu được rượu
Chổi của sư không muốn quét núi
Đàn không để trẻ con tìm
Hạc ngủ yên trên lầu đá
Đệm gấm sưởi ấm thân con mèo
Trăng trong sóng ánh bạc
Thành mây giấu vầng đỏ
Thấm mùi thơm hoa mai
Say rượu pha nước trúc
Dây đai uyên ương ướt đầm
Đuôi phỉ thuý dính đầy
Không có tiếng gió mạch mạch
Lại không có tiếng mưa tiêu tiêu
Sớm nay muốn có nhạc
Làm thơ chúc Thuấn Nghiêu

Trên đây, chúng tôi đã nối tiếp bài viết Tào Tuyết Cần cùng tập thơ hồng lâu mộng vàng đánh phần đầu bằng những bài thơ còn lại trong tập thơ vang danh này. Hồng Lâu Mộng là tác phẩm văn học theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện thực, phê phán mạnh mẽ hệ thống xã hội phong kiễn đang lúc suy tàn. Mời các bạn đón xem và cảm nhận nhé!