Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 1916 – 6 tháng 9 1976) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.

Thơ Vũ Hoàng Chương được đánh giá rất cao và được nhiều người yêu thích. Tuy nhiên các tài liệu ghi chép lại cuộc đời của ông còn rất ít. Có một thời gian ông đã bỏ dỡ học Cử nhân toán tại Hà Nội và đi dạy ở Hải Phòng. Trong thời gian này ông đã sáng tác rất nhiều thơ ca. Dưới đây là những bài thơ tron tập Hoa đăng mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn.

Nhịp trúc mùa thơ

Hoa mai nở tuyết đầu khe suối
Làn sóng kỳ hương nhập ánh trăng
Ca giữa lời mây hề đàn trong tiếng khói
Hồn cũ trời Nghiêu hề ai có nghe chăng?
Ta nghe vạt áo Cô Hằng
Nổi lên trận gió chim bằng ngày xưa…
Nhạc tan thành một bài thơ
Giòng Ngân quạ réo đôi bờ lưu ly…
Từ phen Trái Đất ra đi
Lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương
Chiều nay hề lòng khe nở nguyệt
Đầu khe hề rừng tuyết đưa hương
Tám suối âm thanh hề dồn trong nhịp trúc
Ta gõ mà chơi hề vang giấc hoàng lương
Nhắn chơi về cuộc tang thương
Bóng hoa mai rợp con đường trầm luân
Đời hiểu gì chăng hề chữ Đạo?
Ta có hay không hề cái Thân?
Nước trôi sáu ngả vào Tần
Chẳng qua một phút mây vần sườn non

Tâm sự một người

Thơ ném mười phương
Tình trao thiên hạ
Mỏi nhớ mòn phương
Ngàn dâu bóng ngả.
Gối chăn ơi, hỡi chiếu giường,
Vùi đây tâm sự thê lương!
Tiếng thở dài sao rụng
Hàng lệ đắng mưa tuôn.
Đầu ấp vào ngươi
Mình riết vào ngươi
Giòng đau tâm sự khơi nguồn.
Bình sinh mộng đã hoàng hôn
Bông, tre, vải, cói… mồ chôn cuộc đời.

Ta khóc cùng ngươi
Ta giãi cùng ngươi
Giòng đau tâm sự đầy vơi.
Gối chông chênh, mền cũ nếp khâu rời
Chiếu mong manh, giường hẹp của ta ơi!

Trăng rụng nửa vời
Đêm mờ trọn kiếp
Nghiêng đĩa dầu vơi
Không thành giấc điệp.
Bảo giùm ta, gối hỡi chăn hời!
Phương nào sự nghiệp?
Tình mất đâu nơi?

Hương phấn vàng son ngoài cửa khép
Then cài nghe mộng tứ bề rơi.
Gối chăn yêu mến, giường thân thiết,
Ta mở hồn ta với các ngươi!

Bài ca Bình Bắc

Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương Ðông, ngùn ngụt lửa
Mặt trời lặn ở phương Ðoài, máu chứa chan
Đã sáu mươi ngàn lần …
Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn
Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta – Có phải?
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Ðống Ða một trận năm đường giáp công
Ðạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng
Chừ đây lại đã xuân sang
Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ
Ai kia lòng có mang mang
Ðầy vơi sầu xứ – Hãy cùng ta
Ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thét từng trang

Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót năm mầu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảng khắc
Ðổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối thời gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng

Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước, cả non sông một dải
Vươn mình theo – dãy Hoành Sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ
Giặc không mồ chôn
Voi thiêng chuyển vó
Nát lũy tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây thét gió
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt tươi son

Hưởng ứng sông hồ giục núi non
“Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon

Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn
Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào

Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao
Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao
Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào
Ðã về ngự trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải

Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn

Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn
Lũ chúng ta trên ngã ba đường
Ghi ngày giỗ trận
Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG
Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương
Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”

Ðể một mai bông thắm cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt
Mừng trời đất gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
Một trận Ðống Ða nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn.

Đá ngủ bên thềm

Quán khách nằm xuông lắng tiếng mưa
Cái xuân đời loạn não nùng chưa!
Mặt e gió cợt đào không mở
Thoi giục năm già én cứ đưa
Thẹn nỗi mình thêm hờn nỗi nước
Thương người sau lại nhớ người xưa
Biết cùng ai nói câu tâm sự
Đá ngủ bên thềm gọi chẳng thưa

Mộng giao đài

Nắng vàng theo gió vàng lên
Có ai theo gió về trên lầu ngà?
Hương bay thềm Quế xa xa
Nghìn thu chị Nguyệt chưa già ai ơi!
Từ theo trái Đất giong chơi
Vóc băng sương có đầy vơi ít nhiều.
Xót thay, lòng vẫn tiêu điều:
Lửa hành-tinh, mấy mùa yêu, đã tàn.
Ngọc phai vàng tắt dung nhan
Tương tư lạnh khoá cung Hàn từng đêm.
Lệ rơi ướt bảy màu xiêm
Ngang sông quạ réo càng thêm gợi sầu.

Lệ rơi xiêm ướt bảy màu
Ngang sông quạ réo gợi sầu tương tư.
Đêm qua gió vẳng lời thơ
Chiều nay lại một chiều mơ xuống trần.

Có ai nặng một lòng xuân
Từ khi cõi Tục xa dần cõi Tiên?
Có ai lòng nặng thiên duyên
Từ khi bụi xoá đường lên non Bồng?
Có ai tình cũ nặng lòng
Từ khi suối thắm nghẹn giòng Thiên-thai?
Để cho mộng biếc Giao đài
Xe mây rẽ lối trần aimo một chiều.

Khởi sầu

Bất hứa trần thanh nhập ngoạ lâu
Mộng trung Hợp Phố chính hoàn châu
Thiên biên hốt báo lai phương tín
Xạ khởi Cô Tô dạ bán sầu

Mây suối về đâu

Trước đây mười chín năm
Anh vừa hai mươi tuổi
Em cũng vừa trăng rằm
Tóc thơm còn bỏ suối

Học tan chiều mỗi buổi
Đón nhau tận cổng trường
Hai xe cùng giong ruổi
Hồn mơ về một phương

Ôi đẹp nhất con đường
Cửa Đông về Cầu-Gỗ
Nắng đào cây lá vương
Men xuân ngập hè phố

Đóa hoa Tình đợi nở
Trong một phút thần tiên
Làn môi ai bỡ ngỡ
Cặp mắt ai triền miên

Thấy anh đăm đắm nhìn
Cúi đầu Em đỏ má
Như hiểu niềm van xin
Như hẹn cho tất cả

Đêm ấy về đôi ngả
Gác trọ với lầu trang
Giấc mơ đầy bóng Gã
Chiêm bao đầy bóng Nàng

Hè sang hay thu sang
Vẫn mùa xuân bất diệt
Tuổi đá như tuổi vàng
Có riêng vàng đá biết

Đêm nào xanh bóng nguyệt
Vai kề tay nắm tay
Bước vào trang tiểu thuyết
Đôi ta liều lắm thay

Sóng mắt quá chừng say
Môi hồng rượu ân ái
Tình vẫn tình thơ ngây
Lòng đã lòng điên dại

Thế mà… Chưa kịp hái
Giấc mộng chỉ còn hương
Khói mây mờ mặt ải
Thề hoa trăng một phương

Mất về đâu con đường
Học tan chiều mỗi buổi
Nắng đào cây lá vương
Hai xe cùng giong ruổi

Có chàng hai mươi tuổi
Cùng cô bé trăng rằm
Thơ Mây dìu tóc rối
Trôi theo mười chín năm.

Chiến công đời trần

(Nhân dịp kỷ niệm Hưng-Đạo-Vương)

Trang sử Đông-A nhược thắng cường
Đến nay càng đẹp ý treo gương,
Hội Diên-Hồng đó nền Dân-Chủ
Sóng Bạch-Đằng kia hịch Đại-Vương,
Giáo trỏ “Thôn Ngưu” trời đã nín
Tay chàm “Sát Thát” giặc nào đương?
Khí thiêng Vạn-Kiếp bừng mây khói,
Lòng chợt hoa quỳ khắp bốn phương

Trăng rằm

Sóng khóc
Tơi bời
Tới tấp
Vàng rơi
Rối loạn tan hoang cả một trời…
Gió từng cơn sào sạc
Mây từng bầy ngơ ngác
Một vầng trăng bạc
Trên hồ tan tác
Hỡi ơi tan tác vầng trăng
Nửa đêm qua vỡ hết một Cung-Hằng!

Sóng điên quằn quại
Gió cuồng dâng mãi
Từ đáy hồ sâu
Muôn niềm tê tái…
Vô tình ai có thấy chăng?
Có ai buồn với ta chăng?
Nửa đêm qua vỡ hết một Cung-Hằng!

“Vàng gieo ngấn nước!” Ai thi thánh?
Và ai nỡ sẻ làm muôn vạn mảnh
Vầng trăng đêm nay?
Hồn Thơ nát với Lầu Say
Gương Nga lại Bóng Thơ này đảo điên
Ôi sóng thời gian, mây thế sự…
Đường Thanh-Liên hề Việt Thanh-Hiên!
Đâu nữa trăng tròn Thi Tứ?
Đây mùa bão táp triền miên!
Dặm trường tan mộng cố viên
Có ai chắp mảnh ưu phiền thành Thơ?

Xa gửi người xưa

Nói gì đây? Biết nói gì?
Ôi thôi! Từ lúc phân ly đến giờ…
Trời hoa đất rượu ngày xưa
Có còn đâu! Cá chim mờ bóng tăm…
Mới hôm nào, gác Cuồng-Ngâm,
Lời thơ ai đẹp tiếng cầm ai say?
Tang thương một cuộc ai bày?
Giấc Thiên-Thai để trắng tay Lưu-Thần
Xa Cố Đô, vắng cố nhân
Trái tim mềm trĩu hai lần nhớ thương
Ngày ba thu, trời một phương;
Gió Nam lại nức mùi hương trêu người
Bâng khuâng tưởng bóng mơ lời
Mấy cung Hồ Xế tơi bời lòng si.
Nói gì đây? biết nói gì!
Ôi thôi! Từ lúc phân ly đến giờ…
Lênh đênh là kiếp người thơ
Áo xanh màu đã bạc phơ bốn mùa
Bao chương mấy độ vẽ bùa
Chắt chiu cũng đủ tiền mua trăng rằm
Một mai chốn cũ về thăm
Sẽ treo giữa gác Cuồng-Ngâm tặng người
Bạn xưa lại họp cùng chơi
Hoa đêm nguyệt điện mây trời Đằng Vương
Giờ đây chín đứa mười phương
Giai nhân thi sĩ mê đường chiêm bao
Xót đòi cơn! nhớ làm sao!
Cố nhân ơi! Có đêm nào nữa không?
Trang thơ ném giữa bụi hồng…

Chia tay (II)

Liễu bến dài xanh bụi cuốn mờ
Người đi sầu có lệ như tơ?
Say nghiêng núi hận đêm nào nhỉ
Vàng rậy men cuồng ngọc kết thơ!
Đằng-Các mây tan, ầm gió giục
Nước về, hoa cửa động trơ vơ
Lòng đâu khoảnh khắc mà nhi nữ!
Một tiếng “lên đường!” chợt ngẩn ngơ

Cố viên tâm

Bỗng như trăng nước dừng thuyền
Sóng đàn ca đổ dài trên sóng đời
Thu sang đầy xóm lá rơi
Tưởng nghe trong gió lệ người Giang Châu
Hai phen cúc nở riêng sầu
Con thuyền mong buộc, nhớ câu “tình nhà”
Khói dâng huyền ảo tiếng ca
Rừng phong lác đác sương sa bóng chiều
Tầm Dương bến cũ hoang liêu
Ai đem hết cả tiêu điều thời xưa
Phổ vào cung bậc gió mưa
Tiếng ca chìm dứt, còn chưa tạnh hờn
Dư âm đòi đoạn từng cơn
Chắc khu vườn vắng cô đơn nhớ người
Giữa đêm lòng chợt ngậm ngùi:
Giang hồ vị ấy thua mùi cố viên.

Vịnh Hai Bà Trưng

Đồng trụ tan tành lớp phế hưng
Miếu Đồng Nhân vẫn khói hương lừng
Thương chồng thương chị cùng đau đáu
Lo nước lo đời há dửng dưng!
Liệt nữ cả hai còn Sử chép
Lĩnh Nam riêng một có Vương xưng
Ngàn sau nhuệ khí con nòi Lạc
Mũi kiếm đầu voi đủ tượng trưng

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Hoa đăng hay đặc sắc mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua tập thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như hiểu được tại sao tập thơ này lại được đánh giá cao và được yêu thích tới vậy. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo bạn nhé!