Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916 tại Nam Định. Chánh quán của ông ở làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên. Ông là một nhà thơ lớn với những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người, thơ Vũ Hoàng Chương được đánh giá rất cao và có nhiều tập thơ nổi tiếng và được yêu thích. Trong đó phải kể tới tập Hoa đăng – đây là một tập thơ được đánh giá cao và đã nhận được giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc. Đặc biệt văn phong và phong cách thơ Vũ Hoàng Chương được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc và vẫn chứa đựng sắc thái Đông phương.
Hãy cùng tapchivannghe.com cảm nhận bài thơ của ông nhé!
Trả ta sông núi
Nhân ngày kỷ niệm liệt sĩ
Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà
Sông khoe hùng dũng, núi nguy nga
Trả ta sông núi bao người trước
Gào thét đòi cho bọn chúng ta…
Trả ta sông núi từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
Không đòi, ai trả núi sông ta
Cờ báo phục hai bà khởi nghĩa
Ðuổi quân thù, xưng đế một phương
Long Biên sấm dậy sa trường
Ba thu xã tắc, miếu đường uy nghi
Xót nòi giống, quản chi bồ liễu
Dòng Cẩm Khê còn réo tinh anh
Một phen sông núi tranh giành
Má hồng ghi dấu sử xanh đời đời
Bể dâu mấy cuộc đổi dời
Lòng trăm họ vẫn dầu sôi bừng bừng
Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Bố Cái
Liều thế cô dằng lại biên cương
Ðầu voi, Lệ Hải Bà Vương
Dù khi chiến tử vẫn gươm anh hào
Tinh thần độc lập nêu cao
Sài lang kia, núi sông nào của ngươi?
Núi sông ấy của người dân Việt
Chống Bắc phương, từng quyết thư hùng
Ngô Quyền đại phá Lưu Cung
Bạch Ðằng Giang nổi muôn trùng, sóng reo
Hồn tự chủ về theo lửa đuốc
Chữ thiên thu: Nam Quốc sơn hà
Phá tan nghịch lỗ không tha
Tướng quân Thường Kiệt gan già mấy mươi
Gươm chiến thắng trỏ vời Ðông Bắc
Hịch vải nêu tội giặc tham tàn
Dựng nhân nghĩa, vớt lầm than
Danh thơm ải ngoại, sấm ran biên thuỳ
Khí thiêng toả chói tư bề
Phường đô hộ có gai ghê ít nhiều?…
Cửa Hàm Tử vang teo vết cáo
Bến Chương Dương cướp giáo quân thù
Trận Ðà Mạc dẫu rằng thua
Làm Nam quỷ, chẳng làm vua Bắc đình
Chém kiêu tướng, đồn binh Tây Kết
Triều Phú Lương gầm thét giang tân
Phá cường địch báo hoàng ân
Trẻ thơ dòng máu họ Trần cũng sôi
Kìa trận đánh bèo trôi, sóng dập
Sông Bạch Ðằng thây lấp xương khô
Những ai qua lại bây giờ
Nghe hơi gió thoảng, còn ngờ quân reo
Hịch Vạn Kiếp lời khêu tướng sĩ
Hội Diên Hồng quyết nghị toàn dân
Khuông phù một dạ ân cần
Vó thiêng ngựa đá, hai lần bùn dây
Sơn hà mấy độ lung lay
Máu bao chiến sĩ nhuộm say mầu cờ
Cảm ý núi ngồi mơ độc lập
Thuận tình sông trôi gấp tự do
Ấy ai đầu dựng cơ đồ
Gấm thêu lời chiếu Bình Ngô thuở nào
Cơn nguy khốn ra vào sinh tử
Thân nằm gai, lòng giữ sắt son
Linh Sơn lương chúa hao mòn
Quân tan Côi Huyện, chẳng còn mảy may
Chén rượu ngọt cùng say thấm thía
Tình cha con mà nghĩa vua tôi
Thuận dân là hợp ý trời
Sử xanh chót vót công người Lam Sơn
Quốc dân chung một mối hờn
Cần câu đánh giặc mà hơn giáo dài
Chống ngoại địch, gươm mài quyết chiến
Voi Quang Trung thẳng tiến kinh kỳ
Phá Thanh binh trận Thanh Trì
Sông Hồng khoảng khắc lâm ly máu hồng
Núi dậy sấm cho sông loè chớp
Cờ Tây Sơn bay rợp Bắc Hà
Xác thù xây ngất Ðống Ða
Bụi trường chinh hãy còn pha chiến bào
Tinh thần độc lập nêu cao
Sài lang kia, núi sông nào của ngươi
Cường quyền vẫn muôn đời cưỡng áp
Dưới bàn tay giặc Pháp càng đau
Chúa tôi nhỏ lệ cùng nhau
Khua chiêng hải ngoại, rừng sâu kéo cờ
Dạ Cần Vương trơ trơ thiết thạch
Kẻ Văn Thân, hiệp khách cùng chung
Hoàng Hoa Thám, Phan Ðình Phùng
Khói reo Thanh Nghệ, lửa bùng Thái Nguyên
Hợp Nghĩa Thục kết liên đồng chí
Xuất dương tìm tri kỷ Ðông Ðô
Phan Sào Nam, Phan Tây Hồ
Long đong bốn bể, mưu đồ cứu dân
Vận nước chửa hết tuần bĩ cực
Sức người khôn đọ sức ông xanh
Mỗi phen gắng gỏi tung hoành
Thương ôi! sự nghiệp tan tành mỗi phen
Nguyễn Thái Học gan bền, chí cả
Họp đồng bang gióng giả nên đoàn
Rừng xanh bụi cỏ gian nan
Mong đem nhiệt huyết dội tan cường quyền
Tổ chức việc tuyên truyền, ám sát
Khắp nơi nơi, từng hạt, từng châu
Xiết bao hy vọng buổi đầu
Một đêm Yên Bái ngờ đâu tan tành
Ôi Việt sử là tranh đấu sử
Trước đến sau cầm cự nào ngơi
Tinh thần độc lập sáng ngời
Bao người ngã, lại bao người đứng lên
Ngày nay muốn sông bền, núi vững
Phải làm sao cho xứng nguời xưa
Yêu nòi giống, hiểu thời cơ
Bốn phương một ý: phụng thờ giang sơn
Ðừng lo yếu, hãy chung hờn
Cần câu đánh giặc từng hơn giáo dài
Trả núi sông ta! lời dĩ vãng
Thiên thu còn vọng đến tương lai
Trả ta sông núi! câu hùng tráng
Là súng là gươm giữ đất đai
Trông lên cao ngất phương trời
Hồn thiêng liệt sĩ bừng tươi sắc cờ.
Xuân tứ
Oanh thanh lịch lịch chuyển u tùng
Xuân tứ triền miên thục dữ đồng
Ngạnh chất bình do phiêu nộn thúy
Cựu thời hoa dĩ biến tân hồng
Hỗn trần ưng ngộ vô vi thuyết
Tận túy hà thương bất đảo ông!
Khước tiếu lăng tằng tam sổ bối
Thanh thiên hư ỷ kiếm thư hùng.
Đuốc thơ
Non sông một buổi nằm tanh máu
Lửa khét oan cừu đỏ bốn phương
Đối diện khóc trên mùa hợp tấu
Trời thanh bình cũ đất hiền lương
Có bao giờ nữa trăng là ngọc
Mây lại là tơ như trước kia
Hoa lại vàng son rừng lại vóc
Cỏ là nhung giải lối thôn quê!
Bao giờ? Biết có bao giờ nữa?
Ngọc nát tơ rời, chắp được đâu!
Nhân loại từ phen gây khói lửa
Thôn nhung rừng vóc mãi phai nhàu
Trăng hết là trăng của Ái Ân
Mây thôi ràng buộc ý xa gần
Hoa còn đâu nữa tình phong nhụy
Cỏ mất mùi hương tóc gái tân!
Còn ai đau nỗi đau trời đất,
Buồn nỗi buồn thiêng của núi sông?
Ta nhớ thương hồn hoa cỏ mất
Theo làn mây nhẹ ánh trăng trong
Núi phía Nam hề, sông phía Bắc!
Trời phương Đông hỡi, đất phương Tây!
Mặc cho những kẻ mài gươm sắc
Ta chỉ mài riêng ngọt bút này…
Sao cho cái Đẹp, từng nhơ nhuốc
Vì lũ điên rồ, lại thắm tươi!
Bàn tay Nghệ Thuật nêu cao đuốc
Thiêu sạch lòng tham hộ Giống Người
Năm tháng rồi đây sẽ Thuấn Nghiêu,
Đầy xuân đầy nhạc đắm tình yêu
Non sông trời đất khô nguồn lệ
Hoa cỏ mây trăng lại diễm kiều.
Xứ Bụi Hồng kia bừng chói lói
Hào quang tỏa khắp chín mười phương
Ngôi Thơ một sớm cao vòi vọi
Nhân loại chầu quanh ngát khói hương
Xuân thanh bình
Khói đưa trừ tịch trầm gây biếc
Hương đón nguyên tiêu nụ mở đào
Nhựa réo thanh bình vang trái đất
Cho lòng dâu bể cũng xôn xao
Thuyền thơ chở hứng lên cao
Sông xuân lại có đêm nào nguyệt hoa
Bạc trôi từng lớp sao sa
Bẩy màu mây, cửa Tháp Ngà vấn vương
Trời khuya chợt vẳng khúc Ngư-Dương
Đá thét vàng kêu nhịp trống cuồng
Sực tỉnh trông ra ngoài giấc mộng
Hãy còn run rẩy ánh trăng xuông
Tơ xuân rối loạn ai guồng
Mà nghe lòng Tháp buông tuồng khói mây?
Gió thanh bình đã về đây
Mưa vơi trừ tịch trăng đầy nguyên tiêu
Một bài thơ [Tình si]
Vì ai làm một bài thơ
Từ bao giờ đến bây giờ mới xong.
Đầu trang vằng vặc gương trong
Nhạc lơi cánh bướm hương phong nụ đào
Cuối trang vần điệu xôn xao
Lửa si mê bỗng cháy vào làn môi…
Đền nhau một chiếc hôn rồi
Mười lăm năm biết có nguôi giận hờn?
Sánh vai căn vặn nguồn cơn:
Miệng người yêu có ngọt hơn trăng rằm?
Anh rằng: Đôi cánh phương tâm
Mái Tây vừa thoáng hương trầm đó em!
Kề vai căn vặn nỗi niềm:
Má người yêu có tơ mềm tuyết nhung?
Em rằng: Một đoá phù dung
Mấy tang thương vẫn ngại ngùng gió mưa!
Lời sao lời mới dễ ưa
Vàng nghiêng lòng chén hoa chưa ráo thề.
Hoàng-hà chi thuỷ lai hề?
Phó cho sông chảy ngược về trời cao!
Cảm truyện nàng Tơ
Khoảng đôi bờ chữ máu xôn xao
Nét mực bay hoa mở suối Đào
Ai oán tình Tơ thiên tuyệt kỹ:
Tang, tùng…! Nước chẩy khóc non cao
Từ hôm mười ngón đỏ bi thương
Nhịp trúc lời ca dứt vấn vương
Bút ấy ngờ đâu thề ấy cởi
Đêm nào… cho bến lại Tầm Dương!
Cho Tầm Dương lại bến Cô Tô
Quạ thét trăng tà rụng lá ngô
Đàn phới chiêm bao Chùa vọng xuống
Con thuyền Linh Cảm ghé vi lô
Sóng đìu hiu giỡn mái chèo say
Phách giạt Mê Hà quạnh tối nay
Trở giấc, đèn thu bông kết lửa
Trang từng trang, đã vướng tơ đầy.
Mai trắng
Xuân mới ba mươi sáu nõn nường,
Riêng cành mai cũ chiếm yêu đương.
Dài sông nghĩa ấy tình cao núi,
Pha tuyết thân này mặt nhuốm sương.
Chẳng đợi Đông quân làm Đạo chủ,
Vẫn là Hoa hậu sánh Thi vương.
Giang Nam mộng lẫn vào Giang Bắc,
Trời bốn phương, lòng chỉ một phương.
Tâm sự phố phường
Tâm sự chìm sâu bụi phố phường
Nghẹn ngào hơi thở lớp tang thương
Hỡi ơi! Hà Nội bao đêm trắng
Từng đón lòng ta mỗi ngả đường
Vì ta nghe thấu vào hơi thở
Nhìn thấu vào tâm sự bốn phương
Tiềm thức đêm đêm trời rộng mở
Ta chờ linh cảm ý quê hương
Không gian từng kết hình trong mộng
Và sắc thời gian ở chiếu giường
Sông núi xa xưa về hiện bóng
Hồn say ta vượt hết biên cương
Lẽ đâu, và nỡ nào, ta để
Cố quận riêng mình xót nhiễu nhương!
Trận gió ghê tanh mùi chiến địa
Thành mây giợn đỏ máu tà dương
Hỡi gươm đáy sóng, rùa chân tháp!
Ta hiểu rồi, Ngươi, nỗi đoạn trường!
Gió lại còn tanh mùi phấn sáp
Và mây còn đỏ máu hiền lương
Ngõ cụt nào kia trăng lạnh lắm?
Ngã ba này nữa xám màu sương!
Thanh bình cõi ấy xa nghìn dặm
Gạch ngói nằm rên rỉ vết thương
Từng con mắt gỗ hoen giòng lệ
Tiếng khóc thầm dâng mỗi nách tường
Đá cũng nhàu gan bia Tiến Sĩ
Cây vườn Bách Thảo tóc phai hương
Chợt tiếng ai gào muôn điệp khúc
Tự Hồ Tây lại, Đống Đa sang
Cầu Long Biên với cầu Thê Húc
Bền sắt tươi son hẹn đá vàng
Tâm sự bấy lâu đà cởi mở:
Thanh bình không phải giấc mơ xuông!
Đêm nay Hà Nội đằm hơi thở
Vào nhịp cười say một gã cuồng.
Lộng chương
Đợi suốt mười năm một đứa con
Là đây: trời đất bỗng vàng son
Hoa, mùa xuân tới, hoa bừng nở
Trăng, đến rằm, trăng lộng lẫy tròn
Từ hôm nay nhỉ! Suối hào quang
Nối mãi giòng Thơ họ Vũ Hoàng
Ngọc nhả thành Chương, Oanh ríu rít
Ôi lòng cha mẹ khúc tân xoang!
Con ngủ trong nôi mộng dịu hiền
Chung quanh, đời chợt lắng bình yên
Nghe từng nét mặt từng hơi thở
Hiện bức tranh thần, bản nhạc tiên
Thơ Say, Vân Muội, Mây, Rừng Phong
Liên tiếp ra đời tưởng vẫn không
Phải có một thằng Tuân mới đủ
Cho ta mừng thấy lũ con đông
Hoa đến mùa, trăng đã đến tuần
Ước mơ đã hiện Vũ-Hoàng-Tuân
Đầy trời ánh sáng, hương đầy đất
Lòng kết vàng son hội mở xuân.
Thuỷ tiên
Từng non giạo cánh bể giong thuyền
Mở một phương trời hỏi túc duyên
Người kết thơ Mây còn có Mộng
Hoa soi gương Nước hẳn là Tiên!
Chén vàng đâu đó lìa trăng xuống
Gót ngọc này đây vượt sóng lên
Trong cõi yên ba đều khác tục
Có gì trong rượu, hỡi Thanh Liên!
Tuổi xanh
Trăng dịu từ phen gặp gió lành
Sông lam từ buổi gặp non xanh
Từ hoa quen bướm trời quen đất
Em đã yêu rồi, đã của Anh
Thuở ấy tuổi Vàng hay tuổi Đá
Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ
Gối xuân chỉ biết từ nghiêng sóng
Vần điệu trôi dài mãi tuổi Thơ
Tuổi dẫu Vàng bay, dẫu Đá qua
Vàng chưa ai nhạt, Đá ai nhòa
Trái tim vẫn tuổi Đồng Trinh Bạch
Thì sắc hương còn vẹn tuổi Hoa
Thời gian có mỏi cánh chim bằng
Vũ trụ sang mùa tận thế chăng
Anh vẫn còn Thơ về giáng bút
Em còn Hoa đủ kết hoa đăng
Hoa gieo ánh sáng ngập tinh cầu
Bút vẽ thành Thơ giấc mộng đầu
Nắng rộng mưa dài thu một nét
Không gian còn lại có bề sâu
Lứa đôi tái thế vẫn tương phùng
Nguyên thủy nào đâu khác cực chung
Anh muốn dìu Em giờ hiện tại
Nghe trăng hòa điệu nước lên cung
Hòa điệu lên cung trăng nước dậy
Xuyên ngang gió trận dọc mây thành
Tuổi Thơ này với Hoa Niên ấy
Muôn trước ngàn sau thăm thẳm xanh.
Đăng trình
Bao nhiêu hạt cát bến sông này
Đã bấy nhiêu ngàn thế kỷ nay
Ta vượt ngàn năm đường ánh sáng
Tự ngoài Vô Tận đến nơi đây
Trái Đất mừng ta nhạc vút cao
Băng sơn gầm thét, hỏa sơn gào
Bóng ta in xuống chân trời mới
Nhật Nguyệt hai phương ngửa mặt chào
Muôn màu chen dự lễ đăng quang
Biển nước xanh lơ, biển cát vàng
Hoa tím buông lơi sườn cỏ biếc
Ôi rừng trinh bạch, đảo hồng hoang
Nhưng vẻ thiên nhiên tự buổi đầu
Với thời gian đã mất về đâu
Níu sông mòn mỏi bao hưng phế
Hiện nét già nua mặt Địa Cầu
Đại lục buồn soi bóng đại dương
Cỏ hoa rừng đảo úa dần hương
Cũng như trái đất khô dần nhựa
Còn, chỉ còn dư vị chán chường.
Đêm đêm ta dõi mấy tầng cao
Tìm một không gian mới lạ nào
Lấp lánh Quê Trời thơ hẹn bến
Giam mình Quê Đất mãi hay sao.
Nhân loại ra đi chẳng một lần
Hợp tan nào khác mảnh phù vân
Trên đà tốc độ siêu quang ấy
Một chuyến đăng trình một hóa thân.
Này lúc vèo qua hệ Thái Dương
Ném sau ngàn đốm lửa kim cương
Mạn thuyền cháy lên rừng rực
Ta gõ mà ca: Thiên nhất phương.
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ Hoa đăng. Đây là một tập thơ vô cùng độc đáo và đặc sắc nhất là đối với những người yêu thích thơ ca. Để rồi qua đó chúng ta sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ này. Cũng như hiểu được tại sao nhà thơ này lại được đánh giá cao đến như vậy.