Nam Trân được bạn đọc biết đến không chỉ là một nhà thơ kiệt xuất mà còn là một dịch giả lỗi lạc cùng với những thi phẩm đi cùng năm tháng gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc. Ngòi bút của ông tinh tế luôn biết cách lấy lòng người đọc mạnh mẽ. Hôm nay chúng tôi sẽ đem bạn đến với một thế giới khác biệt đó chính là những bài thơ dịch của nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc Lý Bạch.
Bả tửu vấn nguyệt 把酒問月
青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。
Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
Há Giang Lăng – Tảo phát Bạch Đế thành
朝辭白帝彩雲間,
千里江陵一日還。
兩岸猿聲啼不住,
輕舟已過萬重山。
Há Giang Lăng – Tảo phát Bạch Đế thành
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
Dịch nghĩa
Buổi sáng từ biệt thành Bạch Đế, ở trong làn mây rực rỡ,
Đi suốt một ngày, vượt qua ngàn dặm về tới Giang Lăng.
Hai bên bờ sông tiếng vượn kêu mãi không thôi,
Thuyền nhẹ đâu ngờ đã vượt qua muôn trùng núi non.
Dịch
Sáng rời Bạch đế rực ngàn mây
Nghìn dặm Giang Lăng, tới một ngày
Vượn hót bên sông nghe rỉ rả,
Thuyền qua muôn núi vượt như bay.
Lao Lao đình 勞勞亭
天下傷心處,
勞勞送客亭。
春風知別苦,
不遣柳條青。
Lao Lao đình
Thiên hạ thương tâm xứ,
Lao Lao tống khách đình.
Xuân phong tri biệt khổ,
Bất khiển liễu điều thanh.
Dịch nghĩa
Đây là nơi thương tâm trong chốn nhân gian,
Tiễn khách ở đình Lao Lao.
Gió xuân như) biết nỗi khổ biệt ly,
Nên không khiến nhành liễu có màu xanh.
Dịch
Dưới trời đau khổ nhất,
Tiễn chốn Lao Lao đình.
Gió xuân thấu lỗi biệt,
Chẳng cho xanh liễu cành.
Nga My sơn nguyệt 峨嵋山月
峨嵋山月半輪秋,
影入平羌江水流。
夜發清溪向三峽,
思君不見下渝州。
Nga My sơn nguyệt
Nga My sơn nguyệt bán luân thu,
Ảnh nhập Bình Khương giang thuỷ lưu.
Dạ phát Thanh Khê hướng Tam Giáp,
Tư quân bất kiến há Du Châu.
Dịch nghĩa
Trăng lên đầu núi Nga My nửa vầng thu
Chiếu xuống sông Bình Khương lấp lánh dòng nước trôi
Ði từ Thanh Khê ra hướng Tam Giáp
Nhớ anh, không thấy xuống Du Châu.
Dịch
Nga My trăng núi nửa vành thâu,
Ánh rọi Bình Khương nước cuốn làu.
Tối ở Thanh Khê trẩy Tam Giáp,
Nhớ nhau chẳng thấy xuống Du Châu.
Ngọc giai oán 玉階怨
玉階生白露,
夜久侵羅襪。
欲下水晶簾,
玲瓏望秋月。
Ngọc giai oán
Ngọc giai sinh bạch lộ
Dạ cửu xâm la miệt
Dục hạ thuỷ tinh liêm
Linh lung vọng thu nguyệt
Dịch nghĩa
Sương trắng rơi bên thền ngọc;
Đêm khuya, sương lan ướt bít tất lụa.
Toan buông tấm rèm trong suốt như thuỷ tinh xuống
Để ngắm bóng trăng thu trong trẻo.
Dịch
Móc trắng tươm thềm ngọc,
Đêm dài ướt tất tơ.
Thuỷ tinh rèm thả xuống,
Lóng lánh ngắm trăng thu.
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 月下獨酌其一
花間一壺酒,
獨酌無相親。
舉杯要明月,
對影成三人。
月既不解歡,
影徒隨我身。
暫伴月將影,
行樂須及春。
我歌月徘徊,
我舞影零亂。
醒時同交歡,
醉後各分散。
永結無情遊,
相期邈雲漢。
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.
Dịch nghĩa
Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đã không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo mình
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại
Dịch
Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba.
Trăng đã không biết uống,
Bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng trăng với bóng,
Chơi xuân cho kịp mà!
Ta hát, trăng bồi hồi,
Ta múa, bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui,
Say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình,
Hẹn nhau tít Vân Hán.
Oán tình 怨情
美人捲珠簾,
深坐顰蛾眉。
但見淚痕濕,
不知心恨誰。
Oán tình
Mỹ nhân quyển châu liêm,
Thâm toạ tần nga my.
Đãn kiến lệ ngân thấp,
Bất tri tâm hận thuỳ.
Dịch nghĩa
Người đẹp cuốn chiếc rèm ngọc,
Ngồi thật lâu, ủ rũ mày ngài.
Chỉ thấy nước mắt đẫm ướt,
Không biết lòng nàng đang giận ai đây.
Dịch
Mỹ nhân cuốn rèm ngọc
Ngồi lặng chau mày ngài
Chỉ thấy mắt đẫm lệ
Chẳng hay lòng giận ai
Sa Khâu thành hạ ký Đỗ Phủ
我來竟何事,
高臥沙丘城。
城邊有古樹,
日夕連秋聲。
魯酒不可醉,
齊歌空復情。
思君若汶水,
浩蕩寄南征。
Sa Khâu thành hạ ký Đỗ Phủ
Ngã lai, cánh hà sự?
Cao ngoạ Sa Khâu thành.
Thành biên hữu cổ thụ,
Nhật tịch liên thu thanh.
Lỗ tửu bất khả tuý.
Tề ca không phục tình.
Tư quân nhược Vấn Thuỷ,
Hạo đãng kí nam chinh.
Dịch nghĩa
Ta tới đây, cũng không biết là vì sao đây ?
Mà nằm dài trong thành Sa Khâu
Ngoài thành có cây cổ thụ
Ngày đêm xào xạc tiếng thu
Rượu nước Lỗ không thể làm ta say
Ca xướng nước Tề cũng không hợp lòng ta
Nhớ anh như là sông Vấn
Dào dạt chảy về nam.
Dịch
Tới đây nào bận việc ?
Nằm khểnh ở Sa Khâu,
Thành giáp hàng cổ thụ,
Suốt ngày động tiếng thu.
Rượu Lỗ không hứng mấy,
Ca Tề chẳng hợp nhau.
Nhớ anh như sông Vấn,
Về Nam chảy rạt rào.
Tĩnh dạ tứ 靜夜思
床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Đầu tường trăng sáng soi,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng,
Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.
Dịch
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Tử Dạ thu ca 子夜秋歌
長安一片月,
萬戶擣衣聲。
秋風吹不盡,
總是玉關情。
何日平胡虜,
良人罷遠征?
Tử Dạ thu ca
Trường An nhất phiến nguyệt,
Vạn hộ đảo y thanh.
Thu phong xuy bất tận,
Tổng thị Ngọc quan tình.
Hà nhật bình Hồ lỗ,
Lương nhân bãi viễn chinh?
Dịch nghĩa
Mảnh trăng mọc trên đầu Trường An
Nơi nơi nghe tiếng đập áo
Gió mùa thu thổi không hết
Rốt cuộc cũng còn đâu đó cái nhớ nhung về người miền Ngọc Môn quan
Trời hỡi ngày nào dẹp xong rợ Hồ
Cho chồng tôi hết phải sống cuộc đời lính thú xa xôi.
Dịch
Trường An trăng một mảnh
Đập vải rộn muôn nhà
Gió thu thổi không ngớt
Ải Ngọc tình bao la
Bao giờ dẹp yên giặc
Cho chàng khỏi xông pha
Ức Tần Nga 憶秦娥
簫聲咽,
秦娥夢斷秦樓月。
秦樓月,
年年柳色,
灞陵傷別。
樂遊原上清秋節,
咸陽古道音塵絕。
音塵絕,
西風殘照,
漢家陵闕。
Ức Tần Nga
Tiêu thanh yết,
Tần Nga mộng đoạn Tần lâu nguyệt.
Tần lâu nguyệt,
Niên niên liễu sắc,
Bá Lăng thương biệt.
Lạc Du nguyên thượng thanh thu tiết,
Hàm Dương cổ đạo âm trần tuyệt.
Âm trần tuyệt,
Tây phong tàn chiếu,
Hán gia lăng khuyết.
Dịch
Tiêu bặt tiếng
Tần Nga tỉnh mộng Tần lâu nguyệt
Tần lâu nguyệt
Mỗi năm liễu thắm
Bá Lăng tiễn biệt
Thả bước dạo chơi thu trong mát
Hàm Dương lối cũ không tin nhạn
Không tin nhạn
Nắng gió xiên xiên
Lâu đài nhà Hán
Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký
楊花落盡子規啼,
聞道龍標過五溪。
我寄愁心與明月,
隨君直到夜郎西。
Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký
Dương hoa lạc tận tử quy đề,
Văn đạo Long Tiêu quá Ngũ Khê.
Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt,
Tùy quân trực đáo Dạ Lang tê (tây).
Dịch
Hoa dương rụng, cuốc buồn ghê,
Long Tiêu nghe nói vượt khe năm dòng.
Tấm sầu với mảnh trăng trong,
Gửi theo tiễn bác tới vùng Dạ Lang
Vọng Lư sơn bộc bố 望廬山瀑布
日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。
Vọng Lư sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu xuống núi Hương Lô sinh ra màu khói tía,
Từ xa nhìn thác nước treo như con sông trước mặt.
Bay chảy thẳng xuống từ ba nghìn thước,
Ngỡ là Ngân Hà rơi khỏi chín tầng mây.
Dịch
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Xuân dạ Lạc thành văn địch 春夜洛城聞笛
誰家玉笛暗飛聲,
散入春風滿洛城。
此夜曲中聞折柳,
何人不起故園情。
Xuân dạ Lạc thành văn địch
Thuỳ gia ngọc địch ám phi thanh,
Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành.
Thử dạ khúc trung văn “Chiết liễu”,
Hà nhân bất khởi cố viên tình?
Dịch nghĩa
Tiếng sáo ngọc nhà ai bay trong đêm tối
Tan vào gió xuân, đầy cả thành Lạc Dương
Đêm nay nghe trong khúc nhạc có lời “Bẻ liễu”
Có ai mà không dấy lên nỗi nhớ nhà?
Dịch
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng,
Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương.
Văng vẳng đêm nay bài “chiết liễu”,
Ai người không chạnh nỗi tha hương?
Nam Trân là một thi sĩ nổi tiếng, những bài thơ của ông được nhiều bạn đọc yêu thích và ca ngợi. trong đó những tác phẩm thơ dịch của ông luôn khiến bạn đọc phải thán phục trước sự tài hoa và am hiểu ngôn ngữ của ông. Hãy đồng hành cùng chúng tôi để theo dõi những bài viết hấp dẫn hơn nhé!