Nam Trân là một ngòi bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Bằng trí tuệ uyên bác và sự cảm nhận sâu sắc về con người và cuộc đời của Bác Hồ kính yêu, Nam Trân và các cộng sự đã thành công trong việc dịch tập thơ Nhật ký Trong Tù ra tiếng Việt. Đây chúng là mốc son chói lóa trong sự nghiệp thơ ca của ông. Tập thơ này đã đưa ông lên một tầm cao mới đến gần hơn với độc giả yêu thơ.

Chiết tự 折字 • Chơi chữ

囚人出去或為國,
患過頭時始見忠。
人有憂愁優點大,
籠開竹閂出真龍。

Chiết tự

Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thủy kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Dịch nghĩa

Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,
Qua cơn hoạn nạn mới rõ người trung;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở then cửa trúc, rồng thật sẽ bay ra.

Dịch

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

Công kim 工金 • Tiền công

煮一鍋飯六毛錢,
一盆開水銀一元。
一元買物得六角,
獄中价格定昭然。

Công kim

Chử nhất oa phạn lục mao tiền,
Nhất bồn khai thuỷ ngân nhất nguyên;
Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,
Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.

Dịch nghĩa

Thổi một nồi cơm phải sáu hào,
Một chậu nước sôi một đồng bạc;
Một đồng mua hàng chỉ đáng giá sáu hào,
Giá cả trong tù định rõ như thế!

Dịch

Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định rõ sao!

Cước áp 腳閘 • Cái cùm

猙獰餓口似兇神,
晚晚張開把腳吞。
各人被吞了右腳,
只剩左腳能屈伸。
世間更有離奇事,
人憫爭先上腳鉗。
因為有鉗才得睡,
無鉗沒處可安眠。

Cước áp

Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần,
Vãn vãn trương khai bả cước thôn.
Các nhân bị thôn liễu hữu cước,
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
Thế gian cánh hưu ly kỳ sự,
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm.
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thuỵ,
Vô kiềm một xứ khả an miên.

Dịch nghĩa

Miệng đói dữ tợn như một hung thần,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Người nào cũng bị nuốt chân phải,
Chỉ còn chân trái co duỗi được thôi.
Trên đời lại có chuyện thật là kỳ,
Mọi người tranh nhau đến trước để cùm chân;
Vì có cùm chân mới được ngủ,
Không cùm chân thì không chỗ ngủ yên.

Dịch

Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu ?

Cửu bất đệ giải 久不遞解 

苦葯杯將乾更苦,
難關末步倍艱難。
長官部只隔里許,
何故長留我此間。

Cửu bất đệ giải

Khổ dược, bôi tương can cánh khổ,
Nan quan, mạt bộ bội gian nan;
Trưởng quan bộ chỉ cách lý hử,
Hà cố trường lưu ngã thử gian?

Dịch nghĩa

Chén thuốc đắng, lúc gần cạn càng đắng,
Cửa ải khó, đến chặng cuối càng khó khăn;
Dinh trưởng quan chỉ cách chừng một dặm,
Cớ sao giữ mãi ta ở chốn này?

Dịch

Thuốc đắng, cạn liều càng thấy đắng,
Đường gay, cuối chặng lại thêm gay;
Dinh quan chỉ cách đây chừng dặm,
Sao mãi giam ta ở chốn này ?

Cửu vũ 久雨 • Mưa lâu

久天下雨一天晴,
可恨天公沒有情。
鞋破路泥污了腳,
仍須努力向前行。

Cửu vũ

Cửu thiên hạ vũ, nhất thiên tình,
Khả hận thiên công một hữu tình!
Hài phá, lộ nê, ô liễu cước,
Nhưng tu nỗ lực hướng tiền hành.

Dịch nghĩa

Chín ngày mưa, một ngày tạnh,
Đáng giận ông trời thật vô tình!
Giày rách, đường lầy, lấm cả chân,
Nhưng vẫn phải gắng sức đi lên phía trước.

Dịch

Một ngày hửng nắng, chín ngày mưa,
Trời thật vô tình, đáng giận chưa!
Giày rách, đường lầy, chân lấm láp,
Vẫn còn dấn bước dặm đường xa.

Dạ bán 夜半

睡時都像純良漢,
醒後才分善惡人。
善惡原來無定性,
爹由教育的原因。

Dạ bán

Thụy thì đô tượng thuần lương hán,
Tỉnh hậu tài phân thiện, ác nhân;
Thiện, ác nguyên lai vô định tính,
Đa do giáo dục đích nguyên nhân.

Dịch nghĩa

Lúc ngủ, mọi người đều có vẻ thuần hậu,
Tỉnh dậy, mới phân biệt rõ người thiện kẻ ác;
Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu,
Phần lớn đều do giáo dục mà nên.

Dịch

Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Dã cảnh 野景

我來之時禾尚青,
現在秋收半已成。
處處農民顏帶笑,
田間充滿唱歌聲。

Dã cảnh

Ngã lai chi thì hoà thượng thanh,
Hiện tại thu thu bán dĩ thành.
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu,
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Dịch nghĩa

Lúc ta đến lúa còn xanh,
Nay vụ gặt đã xong một nửa;
Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở,
Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát.

Dịch

Tới đây khi lúa còn con gái,
Gặt hái hôm nay quá nửa rồi;
Khắp chốn nông dân cười hớn hở,
Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.

Dạ lãnh 夜冷

秋深無褥亦無氈,
縮脛弓腰不可眠。
月照庭蕉增冷氣,
窺窗北斗已橫天。

Dạ lãnh

Thu thâm vô nhục diệc vô chiên,
Súc hĩnh cung yêu bất khả miên.
Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,
Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.

Dịch nghĩa

Đêm cuối thu không đệm cũng không chăn,
Nằm co cẳng cong lưng vẫn không ngủ được;
Trăng soi khóm chuối trước sân càng tăng thêm khí lạnh,
Nhòm qua cửa sổ, sao Bắc Đẩu đã ngang trời.

Dịch

Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang.

Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ

解過廣西十三縣,
柱了十八個監房。
試問余所犯何罪,
罪在為民族盡忠。

Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ

Giải quá Quảng Tây thập tam huyện,
Trú liễu thập bát cá giam phòng;
Thí vấn dư sở phạm hà tội?
Tội tại vị dân tộc tận trung!

Dịch nghĩa

Giải khắp mười ba huyện tỉnh Quảng Tây,
Dừng chân qua mười tám nhà lao;
Thử hỏi ta phạm tội gì?
Tội tận trung với dân tộc!

Dịch

Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua;
Phạm tội gì đây ? Ta thử hỏi,
Tội trung với nước, với dân à ?

Đáo Liễu Châu 到柳州

千阜萬苦非無限,
九日吾人到柳州。
回顧百餘天惡夢,
醒來面尚帶餘愁。

Đáo Liễu Châu

Thiên tân vạn khổ phi vô hạn,
Cửu nhật ngô nhân đáo Liễu Châu;
Hồi cố bách dư thiên ác mộng,
Tỉnh lai diện thượng đới dư sầu.

Dịch nghĩa

Muôn cay nghìn đắng không phải là vô hạn,
Ngày mồng chín, ta đến Liễu Châu;
Ngoảnh lại, hơn trăm ngày ác mộng,
Tỉnh ra, trên mặt còn vương chút u sầu.

Dịch

Muôn cay nghìn đắng đâu vô hạn,
Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu;
Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng,
Tỉnh ra, trên mặt vẫn vương sầu.

Đáo Quế Lâm 到桂林

桂林無桂亦無林,
只見山高與水深。
榕蔭監房真可怕,
白天黑黑夜沈沈。

Đáo Quế Lâm

Quế Lâm vô quế diệc vô lâm,
Chỉ kiến sơn cao dữ thủy thâm;
Dung ấm giam phòng chân khả phạ,
Bạch thiên hắc hắc, dạ trầm trầm.

Dịch nghĩa

Quế Lâm không quế cũng không rừng,
Chỉ thấy núi cao và sông sâu;
Cây đa rủ bóng xuống buồng giam, thực đáng sợ,
Ban ngày thì sầm tối, ban đêm thì im lìm.

Dịch

Quế Lâm không quế, không rừng,
Sông sâu thăm thẳm, trập trùng núi cao;
Bóng đa đè nặng nhà lao,
Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm!

Đáo trưởng quan bộ 到長官部

想這難關是最后,
自由日子快來臨。
那知還有難關在,
我們應該解桂林。

Đáo trưởng quan bộ

Tưởng giá nan quan thị tối hậu,
Tự do nhật tử khoái lai lâm;
Na tri hoàn hữu nan quan tại:
Ngã mẫn ưng cai giải Quế Lâm.

Dịch nghĩa

Tưởng rằng cửa ải khó khăn này là cuối cùng,
Ngày tự do đang đến nhanh;
Ngờ đâu còn cửa ải khó khăn nữa:
Chúng tôi còn bị giải đi Quế Lâm.

Dịch

Tưởng qua cửa ải này là hết,
Ngày tự do âu cũng chẳng chầy;
Nào biết gian nan còn ải nữa:
Quế Lâm còn phải giải đi ngay.

? ? • ?

柳州桂林又柳州,
踢來踢去像皮球。
含冤踏遍廣西地,
不知解到幾時休。

?

Liễu Châu, Quế Lâm hựu Liễu Châu,
Dịch lai dịch khứ, tượng bì cầu;
Hàm oan đạp biến Quảng Tây địa,
Bất tri giải đáo kỷ thời hưu?

Dịch nghĩa

Liễu Châu, Quế Lâm lại Liễu Châu,
Đá qua đá lại như quả bóng da;
Ngậm oan đi khắp đất Quảng Tây,
Không biết giải đến bao giờ mới thôi?

Dịch

Liễu Châu, Quế Lâm lại Liễu Châu,
Đá qua đá lại, bóng chuyền nhau;
Quảng Tây đi khắp, lòng oan ức,
Giải đến bao giờ, giải tới đâu?

Bán lộ đáp thuyền phó Ung

乘舟順水往邕寧,
脛吊船欄似絞刑。
兩岸鄉村稠密甚,
江心漁父釣船輕。

Bán lộ đáp thuyền phó Ung

Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

Dịch nghĩa

Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,
Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ;
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lướt nhẹ.

Dịch

Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

Bất miên dạ 不眠夜

茫茫長夜不能眠,
我做囚詩百幾篇。
做了一篇常擱筆,
從籠門望自由天。

Bất miên dạ

Mang mang trường dạ bất năng miên,
Ngã tố tù thi bách kỷ thiên;
Tố liễu nhất thiên thường các bút,
Tòng lung môn vọng tự do thiên.

Dịch nghĩa

Đêm dài mênh mang không ngủ được,
Ta làm thơ tù đã hơn trăm bài;
Làm xong mỗi bài thường gác bút,
Trông qua cửa tù, ngóng trời tự do.

Dịch

Năm canh thao thức không nằm,
Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi;
Xong bài, gác bút nghỉ ngơi,
Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do.

Bệnh trọng 病重 • Ốm nặng

外感華天新冷熱,
內傷越地舊山河。
獄中害病真辛苦,
本應痛哭卻狂歌。

Bệnh trọng

Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.

Dịch nghĩa

Bên ngoài, cảm vì sự nóng lạnh mới thay đổi của trời Hoa,
Bên trong, đau vì non sông xưa của đất Việt;
Trong tù mắc bệnh thực đắng cay,
Lẽ ra phải khóc ròng mà ta cứ hát ngao!

Dịch

“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh,
“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!

Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội

同是中國友,
同是要赴渝。
君為坐上客,
我為階下囚。
同是代表也,
待遇胡懸殊。
人情分冷熱,
自古水東流。

Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội

Đồng thị Trung Quốc hữu,
Đồng thị yếu phó Du.
Quân vi toạ thượng khách,
Ngã vi giai hạ tù.
Đồng thị đại biểu dã,
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt,
Tự cổ thuỷ đông lưu.

Dịch nghĩa

Cùng là bạn Trung Hoa,
Cùng phải đi Trùng Khánh.
Anh là khách ngồi trên,
Tôi là tù dưới thềm.
Cùng là đại biểu cả,
Đối đãi sao quá khác biệt?
Thói đời thường phân ấm lạnh,
Từ xưa nước vẫn chảy về đông!

Dịch

Cũng là đi Trùng Khánh,
Cũng là bạn Trung Hoa;
Anh, làm khách trên sảnh,
Tôi, thân tù dưới nhà;
Cùng là đại biểu cả,
Khinh trọng sao khác xa ?
Thói thường chia ấm lạnh,
Về đông nước chảy mà!

Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật

敵机浩蕩到天中,
避襲人民跑一空。
我們出籠避空襲,
人人歡喜得出籠。

Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)

Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung,
Tỵ tập nhân dân bào nhất không;
Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập,
Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.

Dịch nghĩa

Trên trời máy bay địch rầm rộ kéo tới,
Tránh oanh tạc, nhân dân bỏ chạy hết sạch;
Chúng tôi cũng ra khỏi lao để tránh máy bay,
Ai nấy mừng rỡ được ra ngoài lao.

Dịch

Máy bay địch bỗng đến ào ào
Tất cả nhân dân chạy xuống hào,
Cửa mở cho tù ra lánh nạn,
Sổ lồng, ai nấy khoái làm sao!

Cấm yên (Chỉ yên đích

煙禁此間很厲害,
你煙繳入他煙包。
當然他可吹煙斗,
你若吹煙罰手鐐。

Cấm yên (Chỉ yên đích)

Yên cấm thử gian hẩn lệ hại,
Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao;
Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu,
Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.

Dịch nghĩa

Ở đây lệnh cấm hút thuốc rất gắt gao,
Thuốc của anh phải nộp vào túi thuốc của nó;
Đương nhiên, nó có thể hút thuốc bằng tẩu,
Nhưng nếu anh hút, bị phạt còng tay.

Dịch

Hút thuốc nơi này cấm gắt gao,
Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao;
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,
Anh hút, còng đây, tay ghé vào.

Chiết tự 折字 • Chơi chữ

囚人出去或為國,
患過頭時始見忠。
人有憂愁優點大,
籠開竹閂出真龍。

Chiết tự

Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thủy kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Dịch nghĩa

Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,
Qua cơn hoạn nạn mới rõ người trung;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở then cửa trúc, rồng thật sẽ bay ra.

Dịch

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

Trên đây là những chùm thơ dịch của Nam Trân. Nhiều nhà nghiên cứu văn học nhận định: Phải là bậc cao thủ mới làm được như vậy. Có rất nhiều bản dịch đã chuyển dịch đầy đủ ra tiếng Việt cái hồn, cái thần thái, xúc cảm, tư tưởng và nhịp điệu của nguyên tác một cách nhuần nhị, hồn nhiên, thật sự là một sự quyện chặt văn hóa và hồn thơ. Mặt khác, những bản dịch thơ Bác cũng là những bản dịch mẫu mực với những yêu cầu nghiêm ngặt nhất của nghệ thuật dịch văn học.