Trong làng thơ ca Việt Nam, nhà thơ Nam Trân để lại rất nhiều thi phẩm thơ nổi tiếng và hấp dẫn. Những điệu thơ cũng như ý thơ, ở Nam Trân, đều là kết quả của sự đắn đo kỹ lưỡng, sự suy tính siêng năng. Nam Trân luôn luôn tự chủ ngòi bút của mình một cách chắc chắn, không bao giờ phóng cho nó đi theo những nhạc điệu âm thầm một đôi khi vẫn thao thức trong lòng ta. Cho nên muốn thưởng thức thơ Nam Trân ta cũng phải luyện tâm trí cho bình thản. Hãy xếp thơ Nam Trân lại những lúc lòng ta có chuyện xôn xao. Dưới đây, chúng tôi xin dành tặng bạn những bài thơ ấn tượng được độc giả yêu thích nhất.
Nạn hữu xuy địch 難友吹笛 • Bạn tù thổi sáo
獄中忽聽思鄉曲,
聲轉淒涼調轉愁。
千里關河無限感,
閨人更上一層樓。
Nạn hữu xuy địch
Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Dịch nghĩa
Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương,
Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn.
Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn,
Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu.
Dịch
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Nạp muộn 納悶 • Buồn bực
環球戰火鑠蒼天,
壯士相爭赴陣前。
獄裡閑人閑要命,
雄心不值一文錢。
Nạp muộn
Hoàn cầu chiến hoả thước thương thiên,
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.
Ngục lý nhàn nhân nhàn chiếu mệnh,
Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.
Dịch nghĩa
Lửa chiến tranh trên hoàn cầu nóng chảy cả trời xanh,
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận;
Trong tù, người nhàn lại nhàn quá đỗi,
Chí lớn mà không đáng giá một đồng tiền.
Dịch
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,
Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.
Ngọ 午 • Buổi trưa
獄中午睡真舒服,
一睡昏昏幾句鐘。
夢見乘龍天上去,
醒時才覺臥籠中。
Ngọ
Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục,
Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung.
Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ,
Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung.
Dịch
Trong nhà lao, giấc ngủ trưa thật khoan khoái,
Một giấc say sưa suốt mấy tiếng liền;
Mơ thấy cưỡi rồng bay lên trời,
Khi tỉnh dậy mới biết mình vẫn nằm trong ngục.
Ngọ hậu 午後 • Quá trưa
二點開籠換空氣,
人人仰看自由天。
自由天上神仙客,
知否籠中也有仙。
Ngọ hậu
Nhị điểm khai lung hoán không khí
Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên
Tự do thiên thượng thần tiên khách
Tri phủ lung trung dã hữu tiên.
Dịch nghĩa
Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí,
Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do;
Khách thần tiên trên trời tự do,
Biết chăng trong tù cũng có tiên?
Dịch
Hai giờ ngục mở thông hơi,
Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do;
Tự do tiên khách trên trời,
Biết chăng trong ngục có người khách tiên?
Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích 獄丁竊我之士的
一生正直又堅強,
攜手同行幾雪霜。
恨彼奸人離我倆,
長膠我你各凄涼。
Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
Dịch nghĩa
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dắt dìu nhau cùng đi đã mấy mùa sương tuyết;
Giận kẻ gian kia chia rẽ hai ta,
Khiến cho tôi và anh phải buồn thương mãi.
Dịch
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Ngục trung sinh hoạt 獄中生活 • Sinh hoạt trong tù
每人各有一火爐,
大大小小幾個鍋。
煮飯煮茶又煮采,
成天煙火沒時無。
Ngục trung sinh hoạt
Mỗi nhân các hữu nhất hoả lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thì vô.
Dịch nghĩa
Mỗi người đều có một hoả lò,
Và mấy chiếc nồi lớn nhỏ;
Thổi cơm, đun trà, lại nấu thức ăn,
Suốt ngày khói lửa không lúc nào ngớt.
Dịch
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
Nhai thượng 街上 • Trên đường phố
街上人爭看漢奸,
漢奸與我本無干。
無干仍是嫌疑犯,
使我心中覺點寒。
Nhai thượng
Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian,
Hán gian dữ ngã bản vô can.
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm,
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.
Dịch nghĩa
Trên đường phố mọi người tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian vốn chẳng liên can gì với ta;
Nhưng không liên can mà vẫn là người tù bị tình nghi,
Khiến lòng ta cảm thấy có chút ghê lạnh.
Dịch
Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.
Nhân đỗ ngã 因肚餓 • Nhân lúc đói bụng
從前送飯天天早,
現在開餐遲又遲。
況復時間不一定,
十十一或十二時。
Nhân đỗ ngã
Tòng tiền tống phạn thiên thiên tảo,
Hiện tại khai xan trì hựu trì;
Huống phục thời gian bất nhất định,
Thập, thập nhất, hoặc thập nhị thì.
Dịch nghĩa
Trước đây ngày ngày đưa cơm rất sớm,
Bây giờ, bữa ăn đã muộn lại càng muộn;
Huống chi lại thêm thời gian không nhất định,
Lúc thì mười giờ, lúc lại mười một, hoặc mười hai giờ.
Dịch
Ngày ngày từ trước cơm đưa sớm,
Bữa bữa giờ đây cứ chậm hoài;
Huống nữa thời gian không nhất định,
Mười giờ, mười một hoặc mười hai.
Nhập lung tiền 入籠錢
初來要納入籠錢,
至少仍須五十元。
倘你無錢不能納,
你將步步碰麻煩。
Nhập lung tiền
Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền,
Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên;
Thảng nhĩ vô tiền bất năng nạp,
Nhĩ tương bộ bộ bỉnh ma phiền.
Dịch nghĩa
Mới đến, phải nộp khoản tiền vào nhà lao,
ít nhất cũng năm mươi đồng;
Nếu anh không có tiền, không nộp được,
Mỗi bước đi anh sẽ gặp chuyện rắc rối.
Dịch
Mới đến nhà giam phải nộp tiền,
Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên”!
Nếu anh không có tiền đem nộp,
Mỗi bước anh đi, một bước phiền.
Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu 一個賭犯硬了
他身只有骨包皮,
痛苦飢寒不可支。
昨夜他仍睡我側,
今朝他已九泉歸。
Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu
Tha thân chi hữu cốt bao bì,
Thống khổ cơ hàn bất khả chi.
Tạc dạ tha nhưng thuỵ ngã trắc,
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.
Dịch nghĩa
Thân hình anh ấy chỉ còn da bọc xương,
Khổ đau, đói rét, không chống đỡ nổi;
Đêm qua anh còn nằm ngủ cạnh tôi,
Sáng nay đã về chín suối.
Dịch
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.
Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo 雙十日解往天保
家家結綵與張燈,
國慶歡聲舉國騰。
我卻今天被綁解,
逆風有意阻飛鵬。
Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo
Gia gia kết thái dữ trương đăng,
Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng.
Ngã khước kim thiên bị bang giải,
Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.
Dịch nghĩa
Nhà nào nhà ấy kết hoa và treo đèn,
Cả nước reo vui, mừng ngày quốc khánh.
Thế mà hôm nay ta bị trói giải đi,
Ngọn gió ngược cố ý cản đôi cánh chim bằng.
Dịch
Nhà nhà hoa kết với đèn giăng,
Quốc khánh reo vui cả nước mừng;
Lại đúng hôm nay ta bị giải,
Oái oăm giá cản cánh chim bằng.
Tảo giải 早解 • Giải đi sớm
一次雞啼夜未闌,
群星擁月上秋山。
征人已在征途上,
迎面秋風陣陣寒。
東方白色已成紅,
幽暗殘餘早一空。
暖氣包羅全宇宙,
行人詩興忽加濃。
Tảo giải
Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san.
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.
Dịch nghĩa
Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Dịch
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
Tân Dương ngục trung hài 賓陽獄中孩
Oa…! Oa…! Oaa…!
家怕當兵救國家。
所以我年才半歲,
要到獄中跟着媽。
Tân Dương ngục trung hài
Oa…! Oa…! Oaa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Dịch nghĩa
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ vào lính cứu nước nhà;
Cho nên em vừa được nửa tuổi,
Đã phải vào nhà tù cùng mẹ.
Tân xuất ngục học đăng sơn 新出獄學登山
雲擁重山山擁雲
江心如鏡淨無塵
徘徊獨步西風岭
遙望南天憶故人
Tân xuất ngục học đăng sơn
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính, tịnh vô trần.
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Dịch nghĩa
Mây ôm dẫy núi, núi ôm mây,
Lòng sông như gương, không chút bụi;
Một mình bồi hồi dạo bước trên đỉnh núi Tây Phong
Trông về phía trời Nam xa xăm nhớ bạn cũ.
Dịch
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ.
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
Tha tưởng đào 他想逃 • Anh ấy muốn trốn
一心只想自由境,
揜命跳車他走開。
可惜他跑半里許,
又被警兵捉回來。
Tha tưởng đào
Nhất tâm chỉ tưởng tự do cảnh,
Yểm mệnh khiêu xa tha tẩu khai;
Khả tích tha bào bán lý hử,
Hựu bị cảnh binh tróc hồi lai!
Dịch nghĩa
Một lòng chỉ mong mỏi cảnh tự do,
Liều mạng nhảy xuống xe, anh ấy trốn;
Tiếc thay, mới chạy chừng nửa dặm,
Lại bị cảnh binh bắt đem về.
Dịch
Tự do anh ấy hằng mong mỏi,
Liều mạng đâm nhào nhảy xuống xe;
Rủi quá chạy đâu chừng nửa dặm,
Bị ngay cảnh sát bắt lôi về!
Thanh minh 清明 • Tiết thanh minh
清明時節雨紛紛,
籠裡囚人欲斷魂。
借問自由何處有,
衛兵遙指辯公門。
Thanh minh
Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn.
Tá vấn tự do hà xứ hữu,
Vệ binh dao chỉ biện công môn.
Dịch nghĩa
Tiết thanh minh mưa phùn dày hạt,
Trong ngục, người tù buồn đứt ruột.
Ướm hỏi: nơi nào có tự do?
Lính gác chỉ tay về phía xa: cửa công đường.
Thế lộ nan 世路難 • Đường đời hiểm trở
走遍高山與峻岩,
那知平路更難堪。
高山遇虎終無恙,
平路逢人卻被監。
余原代表越南民,
擬到中華見要人。
無奈風波平地起,
送余入獄作嘉賓。
忠誠我本無心疚,
卻被嫌疑做漢奸。
處世原來非易易,
而今處世更難難。
Thế lộ nan
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham,
Na tri bình lộ cánh nan kham.
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng,
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân,
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân.
Vô nại phong ba bình địa khởi,
Tống dư nhập ngụ tác gia tân.
Trung thành ngã bản vô tâm cứu,
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian.
Xử thế nguyên lai phi dị dị,
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
Dịch nghĩa
Đi khắp non cao và núi hiểm,
Nào ngờ đường phẳng lại khó qua;
Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì,
Đường phẳng gặp người lại bị bắt!
Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam,
Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu;
Không dưng đất bằng nổi sóng gió,
Đưa ta vào làm “khách quý” trong tù.
Vốn trung thực thành thật, ta không có điều gì thẹn với lòng,
Thế mà bị tình nghi là Hán gian;
Việc xử thế vốn không phải là dễ,
Lúc này, xử thế càng khó khăn hơn.
Dịch
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn
Trên đây là chùm thơ dịch của thi Nam Trân, qua đó chúng ta thêm phần nể phục ngòi bút của ông khi ông có thể dịch thành công tập thơ này. Đây chính là một cơn địa chấn giáng xuống nền văn học Việt Nam. Những bài thơ của ông vẫn luôn vẹn nguyên giá trị đến ngày nay.