Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Ngồi quán là một tập thơ Vũ Hoàng Chương hay độc đáo mà tapchivannghe.com đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn. Thông qua tập thơ này bạn sẽ có được những cảm nhận tinh tế hơn về nhà thơ. Đó là một phong cách thơ độc đáo có sự hòa quyện gần gũi. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu các bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Ngồi quán phần thi phẩm bạn nhé!
Thiên đường hồng
Bỏ hoàng hôn lại đằng sau
Máy già nua ngậm chuỗi sầu lê đi…
Ôi Thiên-mã, nóng lòng chi?
Lồng ra khỏi số Tử-Vi được nào!
Ngoài kia tinh tú lên cao
Xót xa chăng một vì sao trong này?
Sắt rung điệu nhạc khô gầy
Con sên-lửa nuốt từng cây số ngàn
Gẫm mà thương cái đêm tàn
Bánh xe nghiến chậm Thời-gian đau nhừ.
Dặm trường say nhịp lắc lư
Đất hay sóng, hỡi Nam-tư bạn già?
Tối mai còn bạn còn ta
Thủ đô Belgrade ai là Trích-tiên?
Bao giờ chân bước đảo điên
Ngựa Thơ vút cánh lìa thiên đường hồn
Tình đẹp
Đôi ta một lớp một trường
Từ năm ngoái năm kia thời gian trôi gấm vóc
Bao nhiêu chữ viết hoa đều nở mến thương.
Màu mực lá cây xanh tuổi ngọc
Màu phấn trắng tinh ngờ phấn thông vàng.
Anh nhắc em bài toán khó
Em khoe anh bài văn hay
Tình-yêu chỉ nói bằng đuôi mắt
Phượng vĩ chờ mong đỏ tháng ngày.
Nẻo tới trường: nét mềm tranh lụa
Bậc thang lên lớp học: bản đàn nhung
Anh dìu em nhè-nhẹ bước
Một bản hoà âm hai nét song song…
Nhưng rồi hôm nay
Chùm hoa bên cửa lớp
Đàn bướm trên sân trường
Cánh nín thở vô cùng ngạc nhiên.
Có chút gì mầu nhiệm giữa không trung
Vừa toả khắp!
Chàng trai tan ra thành một giòng Lịch-sử
Cô gái nhập vào hai chữ Núi Sông.
Đào sâu trang sử
Khổ đau tràn bốn cửa Thành
Dư ba chợ Bến, hồi thanh xóm Chùa.
Ngựa Thời-gian phá trường đua
Hí lên cho bước Giao-mùa nhịp theo.
Đường Hai-mươi lắng chuông gieo
Gối tay thế kỷ nằm theo hút buồn.
Dưới kia thác lũ mưa nguồn
Lệ hay mạch nước ào tuôn vỡ bờ?
Lật coi, giòng máu chưa mờ,
Bạch-thư dầy mấy muôn tờ đất đen.
Nói với em
Có ai giúp được gì đâu em!
Cha mẹ chúng ta đã về nằm dưới mộ
Còn lo rằng không yên;
Cho dẫu lá vàng chưa vội rụng
Thì sớm khuya sương nắng bồi hồi
Cũng chỉ đến cành khô lay lứt thôi.
Nước chẳng của ai – như từng đợt con rơi –
Vẫn chảy qua cầu…
Đâu phải vững niềm tin là điều kiện đủ!
Thấy không? Em và anh từ lâu rồi thương nhau,
Ý thức Giống Rồng Tiên thấm vào xương tuỷ
Ngay khi chập chững đánh vần,
Rồi lớn lên mộ đạo Từ Bi
Rằm tháng Giêng chưa một lần quên
Theo hương khói lên Chùa lễ Phật,
Và gần đây những đêm Giáng Sinh
Chuông Giáo-đường ngân dài cao vút
Đẩy tới vô biên kích thước truyền hình,
Chúng ta ngồi mơ theo tuyết gieo hoa trong gió
Lòng Bác Ái hoà rung oa oa máng cỏ
Cho mãi khi trở lại đường viền
Của khung đời thường nhật
Của khung trời ngột ngạt
Qua sắc diện thanh âm người xướng ngôn viên.
Ôi lẽ phải từ trái tim
Có tung ra mà không cơ duyên
Nẩy mầm bén rễ!
Hơi chết chóc mù bay rũ liệt mọi mầm xanh
Với bụi tro tàn khốc vây quanh
Làm nghẹt thở
Trời từng vuông xám ngắt màu da che mặt kinh thành,
Và đất gieo mầm
Nói ra càng tức tưởi –
Có còn đâu tâm địa hiền lương
Của bốn ngàn năm vun sới;
Đất ruộng đất rừng
Đất ôm chân các phố phường què quặt
Chẳng đâu là không rách nát
Không mỏi rừ nghe thớ thịt buông xuôi
Tự hiến thân làm những con mồi,
Đất mới khai sinh thì trơ sỏi đá
Phận con hoang náu hình sau mặt nạ
Lầm lì khô cứng đến chua cay
Mạch đau tủi rút lui trong cùng tột bề dầy
Đợi dịp nổ bùng cơn địa chấn;
Đêm gọi hoài tên chiều Thế Tận
Ngày chiêm bao hẹn giấc Đổi Đời
Còn mong gì THƠ ươm hạt nữa em ơi!
Đành rằng đôi ta không bỏ cuộc
Nhưng từ đây ngôn ngữ thiên thần
Khó còn bay xa với hào quang Sách Ước.
Trọn vẹn tương lai nằm trong móng vuốt Hạt Nhân
Nói chi nguồn cảm hứng đơn thuần,
Rồi sẽ Máy làm ra
Cả từ bộ óc
Còn vườn đâu cho THƠ nở hoa!
Em hãy nắm tay anh nhảy dài một bước
Sang hẳn phía bên kia bờ Tận Diệt
Nghĩa là bên kia chấm hết,
Giòng lịch sử này ta viết lại thôi em!
Tiếc gì trang giấy nháp,
Mà cũng chằng cần ai trợ lực;
Khởi điểm sẽ là THƠ trường thiên
Chứ không phải Địa-đàng
Và Hai Người Đầu Tiên không tự nhân lên
Trước sau gì
Trước sau gì đôi vòng tay
Cũng buông nhau để ôm đầy nhớ thương
Anh buông khối ngọc hoang đường
Phút giây ngờ bốc thành hương đa tình
Em buông sức sống thần linh
Thịt da vừa hiện nguyên hình trẻ trai.
Buông tay rụng hết ngày mai
Hỡi ơi từ ngón lên vai giá đồng!
Rồi chiêm bao có siết vòng
Chỉ là ôm một số-không hão huyền.
Chẳng ai vào núi ra biên
Dứt nhau tăm tích cũng biền biệt thôi
Từng đoàn xe đã mù rồi
Trong tay cầm vé khứ hồi bằng dư.
Trước sau gì đêm tương tư
Của đôi mình cũng đen như đất này
Sâu như vết-buồn-hôm-nay
Dài như bất tận cơn-say-máu-người
Nuốt dần thế kỷ Hai-mươi.
Em và Anh… khóc lên… cười lên đi!
Trước sau gì… trước sau gì…
Trong da ngựa
Bờm dựng lên, ngơ ngác
Toàn thân con ngựa già…
Có hồn ai ký thác
Cho ngựa bọc trong da?
Qua Chợ Cá – xưa là Mả Nguỵ –
Hơi bùn tanh lửa quỷ mang mang,
Ngựa say chở hồn đi hoang
Kéo lê sầu giữa hai càng xe hư.
Đường Cây Mai lở lói
Những kim ốc rồi ư?
Sao nghe hành khách nói
Thời trang là “Suy-tư”?
Nếp thi thư gập ghềnh lưu huyết
Đường mang tên Sương Nguyệt Anh chi?
Sài-đô – viên ngọc phương Ly
Ôm trong lòng, có còn gì hào quang?
Nét rêu mờ Hắc Bạch
Hai ngôi lầu cư tang…
Công-tử thời hống hách
Thấm gì nay dọc ngang!
Máy nổ vang đoàn xe bọc thép
Hồn chưa quen sức ép bên tai
Chợt tung bốn vó chạy dài
Đêm xiêu… Ngựa vượt ra ngoài huyền cơ…
Vỗ đôi cánh thần thoại
Mọc lên từ bao giờ
Tiếng nhạc còn rung mãi
Khoảng cách hai giòng Thơ
Sầu môi đào
Chiều chiều tô lại ngấn son
Bờ môi nghe đã chớm mòn chưa em?
Xuân nào vẽ đậm trái tim
Hồn trai mười sáu chết chìm đường cong
Dặt dìu ven biển triền sông
Thuyền ai mơ cánh phiêu bồng dừng đây
Men theo mềm như cơn say
Dốc hồng hoang đổ tháng ngày về đâu?
Ôi làn môi gái chưa sầu
Nét son tô vụng buổi đầu phân vân
Làm cho mê mệt gương thần
Mà xuân trôi cũng có lần mòn sao?
Hơi ca từng đêm như bào
Lấy đi êm ấm rót vào bốn phương
Môi dần khô héo sắc hương
Em ơi còn hỏi gì gương bây giờ
Vẽ lên càng thấy duyên mờ
Son nào trả lại ngây thơ tuổi vàng?
Cánh thuyền năm cũ mang mang
Ải xa mây nổi hồn chàng trai xưa.
Bờ môi chợt động gió mưa
Đêm nay tiếng hát sầu đưa về nguồn.
Sớm giục đường mây
Nổi cơn bi phẫn điên đầu cành hông.
Quyết băng sông vượt hồ ra biển
Ếch nhái kêu tiệc tiễn vang trời
Cô em tiếng tỳ lên khơi
Sé bao nhiêu lụa cho vơi nhiệt tình!
“Bất đắc bình tắc minh” là thế
Giọt máu chen giọt lệ giọt đàn
Cung Xế Xự bậc Xừ Xang
Thấm men giòng nước đẩy vàng sắt lui.
Từ trên mui trăng sao đã rớt
Lại mọc lên theo đợt âm ba
Ngàn xưa đưa khách xa nhà
Mới nghe châu ngọc sáng loà giang biên.
Lần đầu tiên mặt hoa hốc hác
Vẻ phu nhân đài các gấp trăm
Cớ gì che nửa tối tăm
Gái trà mi vẹn gương rằm tiễn ai
Vẫn không ngừng đếm “một… hai…”
Lệnh từ đâu? Phép nào sai ma Mường?
Nghẹn ngào sương kìa đêm giẫy chết
Thuyền bắn đi còn vết giương cung
Ghi vào hơi ca
Một dấu tay khùng
Ghi vào bờ hoa
Một dấu than chung.
Một sợi giống nòi
Máu loang Đất Mẹ đêm ngày
Nhựa thơm còn đọng mình cây Độc-huyền.
Bầu khô chợt bốc hơi men
Âm thanh từng bậc trèo lên đỉnh Trời.
Hành-hương theo Nhạc về nôi
Ngàn thu một sợi Giống-nòi vừa rung.
Để còn rung tới vô cùng
Sợi dây đơn chiếc giữa vùng đa đoan.
Sóng Cà-mau khói Nam-quan
Đầy vơi khói sóng… Chưa đoàn viên ư?
Độc huyền cầm… vang tâm tư…
Đã nghe cốt nhục đau nhừ Trường-sơn!
Nhạc rỗng không
Chiều dăng mưa, Nhạc lên từ ngón hoa.
Trái khổ qua mơ chùm thiên lý
Phút thần giao hương vị một giàn
Mơ giường bình khung
Mơ giấc bình an
Lìa dây tơ, mỗi âm đàn
Truyền hơi… bao mảnh tro tàn hồi sinh!
Trúc bên đình vấn vương Cửa Phật
Bóng in sâu vào đất ai hay?
Đàn rung ngọn… bóng lung lay,
Bóng lay, một giải Đất này chuyển theo…
“Xừ Xang…” từng giọt trong veo,
Dư ba gọi thức cánh bèo trầm luân.
Kéo lê hoài kiếp Lưu-dân
“Lưu Lưu Hồ…” nẻo Hành-vân lệ tràn.
Thoắt đâu giường bình khung
Tròn say giấc bình an
Vòng hợp hoan vừa nghe bướm liệng
Dây vô đoan nẩy tiếng vô thanh…
Ôi Cầm Trăng, mộng đã thành?
Rỗng-không giọt Nhạc gắn lành Quê-hương!
Ba hồi triêu mộ
Người-đi-tu-Phật chớ buồn
Giữa mùa Con-số-không-hồn tác oai!
Tờ a, b… cuốn 1, 2…
Giòng bao nhiêu… khoản mấy mươi… rành rành
Và… trên án sẵn ghi hình,
Thép gang rạch chữ Bất-bình càng sâu.
Người-đi-tu-Phật chớ sầu,
Mặc cho Con-số khoe mầu nhiệm xuông!
Trăm vòng dây Tội hoang đường
Cũng không giam nổi Tình-thương bao giờ.
Con-người về đất về tro,
Lửa còn dâng, nước vỡ bờ còn reo
Thành cơn gió đuổi hùm beo,
Cơ duyên sẽ uốn mình theo, ngại gì!
Người-đi-tu-Phật ra đi
Có buồn chi, có sầu chi… hỡi người!
Một trong hai nửa
Mặt tôi bị cắt làm hai mảnh
Theo chiều ngang;
Tôi nằm đây, còn mũi
Nhô lên cao đỉnh núi phập phồng,
Hơi thở vào nghe máu chảy muôn sông.
Và tôi còn miệng
Với đủ cả đầu môi trót lưỡi
Để than van gào gọi
Qua từng cơn bi phẫn nổi tam bành
Át giọng bầy chim mà tốc độ vượt âm thanh;
Cũng dìm luôn cung bậc
Của đêm đêm tên lửa vút cầu vòng
Của sớm chiều trưa đạn bom rền mưa bấc
Ở gần…xa… chung quanh.
Khúc Loạn-tấu phương Ly bấc hay chì sôi sục?
Nhặng giòi nhung nhúc,
Hai bè ư? Ba… bốn… cả trăm bè!
Mặc dầu tôi không còn tai để nghe.
Cũng như không còn mắt,
Chỉ thấy được bằng chùm gai Siêu-giác-quan
Bằng dùi nhọn hoắt Thần-giao
Bằng cây kim Vô-để-thức
Đâm sâu mỗi một tế-bào.
Đời sống của tôi – một trong hai Nửa-mặt
Có cần chi bồi dưỡng điểm tô;
Gan ruột ai kia đã diều tha quạ rỉa?
Thịt xương nào bơ vơ?
Tôi chỉ biết tôi là Hiện-diện
Không toàn diện mặc dầu;
Tổi chỉ nghĩ tôi là Bất-biến
Không coi vạn biến vào đâu;
Vì tôi còn Tiếng-nói!
Ngôn-ngữ tôi là tim là phổi
Vô-hình-dung
Trơ trơ cùng móng vuốt;
Trái khổ đau và lá hổ ngươi
Sẵn sàng tơ viễn cảm
Từng phút giây khao khát Tự-do viết bằng chữ hoa.
Nên tôi nằm đây rung lên thành vần điệu,
Thứ ngôn ngữ có hào quang trực chiếu,
Ngàn xưa bảo đó là THƠ;
Ước vọng của tôi: hơi thơ vang mặt đất
Sao cho loài người – nếu không thì loài vật
Thoáng dư ba ngoảnh lại bồi hồi
Nhìn cái nhìn anh em vào nửa mặt tôi.
Cái nhìn ấy sẽ mang đầy giá trị
Một chất lọc
Đủ cho bầu sát khi vây quanh tôi còn thở được phần nào
Để tôi làm lễ Nhương-sao
Giùm hết thẩy,
Bạn hay thù cũng vậy!
Để tôi nguyện cầu Thiên-chúa
Cùng đấng Allah
Cùng đức Phật
Cho mặt Trời mặt Trăng mặt Đất
Hay bất cứ mặt nào
Kể luôn mặt Nước
Từ nay sẽ chẳng bao giờ
Bị cắt
Bị chia đôi như những miếng mồi!
Bặt khoá buồng xuân
Hoa quen mặt gió nhiều năm qua,
Gió cũng chờ phiên giáp mặt hoa.
Tường nắng vách mưa ngày tháng lụn,
Tin xuân lại ghé bến Cành Thoa.
Phơi phới vườn thơm, gió khát khao;
Gió đang sung sức, vườn không rào.
Mái Tây đồng loã, gương soi chếch,
Cửa hé rồi, xuân mở động Đào.
Lá liễu mày ai, mắt lá răm,
Khuôn trăng mười sáu, ngực trăng rằm;
Lạ thay, một đoá dài phong nhuỵ
Trước gió Đông về… năm lại năm!
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải,
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái.
E khi chiều xế, tuyết thay tơ,
Không cả chút tình thương nắng quái.
Ôi lòng hoang đảo, mộng chon von!
Trắng mộng, tâm tư biết có còn
Lắng tiếng chim xanh hơi gió biếc
Như bao người đẹp tuổi đào non?
Riêng vẫn đào năm ngoái nở tươi
Hoa cuồng loạn đón gió Đông cười.
Giai nhân đành kiếp lan u uất,
Từng lá gươm sầu nét hổ ngươi.
Kẻ vô-hạn-hận không là gió!
Xuân đến trà mi, đời tự bỏ
Ngôi chín tầng cao, thẳm đáy hang,
Cùng ai gửi chút hương vò võ?
Kìa: ong buớm đã náo tường Đông;
Gió cợt hoa cười khắp núi sông!
Nào thấy bóng ai…! xuân khoá kín,
Thiều quang ngập máu Đỗ quyên hồng
Vượt nguy
Nổi lên, bắp thịt đà-công!
Gân căng hết mức tăng bồng đó nghe!
Hồn ma, kìa những thuyền bè
Từng đau dưới búa trên đe quãng này.
Con quái vật lại chiều nay
Vươn ra ức triệu cánh tay giết người.
Vò ngang vặn ngược tả tơi
Đứt tung mạch nước, da trời, lòng sông…
Đường gân thớ thịt đà-công
Nổi lên đi!… Chiếc thuyền không thể chìm;
Nỏ-thần máy đặt trong tim
Đủ thiêng hơn vuốt loài Kim-quy nào.
Loạt tên buông, máu sôi trào;
Vững tay chèo chống, ba đào phải tan.
Hỡi đà-công, hãy bền gan!
Gió kia phải trút hơi tàn trước ta.
Rồi mai xanh bát nước trà
Nắng sương một bóng la đà ngồi câu,
Vượt nguy nhớ thuở Đương-đầu
Trà xanh mới có chiều sâu Giống-nòi,
Sương vây mới đẹp chỗ ngồi
Giọng Đò-đưa mới cao ngôi nắng vàng,
Câu hò Mái-đẩy duyên giang
Mới thôi son phấn Thời-trang thẹn thùng.
Hỏi ai người khóc
Ngọn đèn soi đáy chữ
Vàng rung mãi chén thề
Hỡi ơi rừng ngôn ngữ
Vòng vây giam hoa lê!
Ta van tiếng Sở giọng Tề
Giẽ ra cho bóng hoa kề hồn trăng.
Hai trăm năm vời vợi
Đường xa hiện pháp đăng.
Trời xưa dìu Tiếng Mới
Về cả đêm nay chăng?
Gió mây chìm nổi điệu Bằng
Sông Ngân rụng cát bến Hằng đầy sao.
Hoa còn mơ giãi bóng
Hồn trăng vẫn gửi trao.
Riêng đây hồ ngọc đọng
Nghe gươm mài xôn xao.
Lòng băng tan vỡ lệ trào
Bật lên tiếng khóc thi hào Tố Như
Xúc động cuối năm
Năm ngoài nơi đây nhoẻn miệng cười,
Tin sương đồn đại: mặt hoa tươi…
Năm nay cuộc Thưởng Văn dừng bước,
Chẳng thấy hoa đâu chỉ thấy người.
Người đón Nàng Thơ sắp hiện thân,
Người khen bút pháp ấy tinh thần,
Người trao tên họ, người ghi chép;
Người, những người… Sao vắng cố nhân?
Có phải chiều xưa cũng Tất-niên,
Thanh phong lai hề hoa yên nhiên;
Lầu cao từ đấy xuân sâu thẳm,
Hoa đã theo ai về cõi Tiên?
Cài đầu hoa Cúc… lại hoa Đào,
Gió vút đường mây đẹp biết bao.
Đủ cả vàng son trên mái tuyết,
Rừng xanh ải tối thoả tiêu dao…
Chơi xuân đất này không cỏ non,
Thơ không vàng nữa, ấn không son.
Hỡi ơi, lòng chợt đau như cắt;
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn.
Huế cảm
Giường thấp giường cao ruồi nhặng bâu
Xuân sang đối diện Quỷ-không-đầu
Mơ rồng ấp trứng sông Hương tủi
Lắng vượn gào con đỉnh Ngự sầu
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
Miền Nam câu hỏi trăm năm trước
Ai trả lời cho Huế… bởi đâu.
Bởi đâu non nước ấy tan tành
Lửa đỏ mây đen thắt chặt vành
Nặng dẫu bằng non thân cũng gục
Rửa cho hết nước máu còn tanh
Kim Long quẫy đứt hơi sương gió
Bạnh Hổ gầm vang nhịp sắt đanh
Từng tiếng ngân dài chuông tháp Mụ
Hồi thanh rền rĩ súng liên thanh.
Súng liên hồi nổ… kịch ai dàn
Đã một trăm năm chẳng hạ màn
Lần lượt vai trò rơi ấn kiếm
Dằng dai sân khấu ngập bùn than
Sông theo Phật hẹn giòng vơi lệ
Núi chống Trời tin đã vững gan
Gió lọt… bỗng dưng trên mặt giấy
La đà bóng trúc… Huế bình an.
Huế bình an chứ… đẹp bao nhiêu
Chẳng thấy không gian đủ bốn chiều
Cành trúc gió đưa về gốc Lạc
Câu hò mái đẩy tới trời Nghiêu
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều
Phủ lấy cho càng cao giá ngọc
Thơ ai từng dệt tấm thương yêu.
Dệt tấm thương nên nhớ ngược giòng
Chín thương mười nhớ đấy Châu-phong
Cố-đô Sử chép nhiều tên gọi
Trực-bắc Thơ dành một hướng mong
Nối lại thuở nay liền thuở trước
Nghe ra thành Phượng có thành Long
Cả Hoa-lư với Mê-linh nữa
Xác bướm đè muôn tảng đá ong.
Đá ong xây giữa mộng đêm vàng
Sầu Cố Đô lên vút tượng Nàng
Thành quách trải bao nơi lập quốc
Miếu đường thêm một chuyến cư tang
Ngọ môn vỡ tiếng rên gò đống
Bảo đỉnh sôi cơn giận xóm làng
Nửa giấc lạnh tanh rồi vạc thuốc
Cửa Sài nghe đạn réo vang vang.
Đạn réo vang vang… lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơn mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu chợt não nề
Cũng đất Hương Bình đen cánh quạ
Hẳn mây Nùng Nhị trắng phương quê
Xác thân mòn mỏi cùng dâu biển
Còn chút hơi Thơ gửi vọng về.
Gửi vọng về ngôi Sầu Cố Đô
Tan tành ngọc đá kể chi mô
Chiều Vân-lâu xuống hoài ư bến
Gương Tĩnh Tâm soi vẹn nhé hồ
Đối bóng vẫn mơ màng bóng hiện
Biết ai mà nhắn nhủ ai vô
Ôi bài Huế Cảm xuân dâng ý
Nghe có hơi thu họa dưới mồ.
Trên đây là các bài thơ mà nhà thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Ngồi quán ở phần Thi phẩm. Trong phần này có trích dẫn lại một số bài thơ ở tập trước. Thông qua đó ta có thể thấy nhà thơ đã vận dụng các yếu tố, cảnh vật để nói lên những suy tư của mình. Đó cũng chính là nét riêng và nét độc đáo trong phong cách thơ Vũ Hoàng Chương.