Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿 (1355?-1428) tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu là Nhị Khê, đến đầu đời Hồ. Là một nhà thơ tài hoa cùng bút pháp thơ điêu luyện được người đời ca tụng. Những thi phẩm của ông vẫn còn vẹn nguyên giá trị cho đến ngày nay và được săn đón nồng nhiệt. Nếu bạn là người yêu thơ ca thì chắc hẳn không thể bỏ qua những trang thơ ấn tượng như vậy phải không? Cùng nhau đón xem nhé!
Bạc Nguyễn gia lăng 泊阮家陵
扁舟天德繫斜暉,
亡阮荒丘已昔時。
肅肅遺靈藏澤樹,
青青古色枕江祠。
桐棺無復成龍氣,
華表惟存宿鶴枝。
凝佇百年成一慨,
黃昏小立自哦詩。
Bạc Nguyễn gia lăng
Biển chu Thiên Đức hệ tà huy,
Vong Nguyễn hoang khâu dĩ tích thì.
Túc túc di linh tàng trạch thụ,
Thanh thanh cổ sắc chẩm giang tì (từ).
Đồng quan vô phục thành long khí,
Hoa biểu duy tồn túc hạc chi.
Ngưng trữ bách niên thành nhất khái,
Hoàng hôn tiểu lập tự nga thi.
Dịch nghĩa
Chiếc thuyền con buộc trong bóng chiều trên sông Thiên Đức,
Mồ hoang họ Nguyễn cũ đã thành việc xưa.
Khí thiêng lẫm liệt còn lẩn quất ẩn ở chòm cây bền chằm,
Mầu cổ xanh xanh, ngôi đền vẫn gối bên sông.
Quan tài cổ vông khôn trở lại khí rồng bay,
Cột hoa biểu chỉ còn là cành hạc đậu,
Đứng lặng suy nghĩ, cảm khái việc trăm năm,
Hoàng hôn rồi, đứng lại chốc lát một mình ngâm thơ.
Bệnh trung hoài Hồng Châu kiểm chính Nguyễn Hán Anh “Thu dạ” vận 病中懷洪州檢正阮漢英秋夜韻
沈水煙消客夢清,
寒燈無語傍人明。
銀河耿耿流當戶,
黃葉蕭蕭落滿城。
奄畫池臺秋著色,
水銀世界月多情。
豈因一病傷豪氣,
睡起狂歌四壁驚。
Bệnh trung hoài Hồng Châu kiểm chính Nguyễn Hán Anh “Thu dạ” vận
Trầm thuỷ yên tiêu khách mộng thanh,
Hàn đăng vô ngữ bạng nhân minh.
Ngân hà cảnh cảnh lưu đương hộ,
Hoàng diệp tiêu tiêu lạc mãn thành.
Yểm hoạ trì đài thu trứ sắc,
Thuỷ ngân thế giới nguyệt đa tình.
Khởi nhân nhất bệnh thương hào khí,
Thuỵ khởi cuồng ca tứ bích kinh.
Dịch nghĩa
Khói trầm tan, giấc mộng đất khách cũng tỉnh,
Ngọn đèn xanh làm thinh, sáng cạnh người.
Sông Ngân vằng vặc đã xế ngang cửa,
Lá vàng xào xạc rơi xuống đầy thành.
Mùa thu điểm xuyết bức tranh ao đài,
Vầng trăng đa tình trong lòng nước bạc.
Há vì một cơn ốm mà tổn thương hào khí,
Ngủ dậy hát vang kinh động cả bốn bức vách!
Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang (Tam xuân mị yên cảnh)
三春媚煙景,
一棹擊滄浪。
習氣俱湖海,
憂心只廟堂。
清詩魚鳥共,
佳句芷蘭香。
興盡中流返,
山間日己黃。
Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang (Tam xuân mị yên cảnh)
Tam xuân mị yên cảnh,
Nhất trạo kích Thương lương.
Tập khí câu hồ hải,
Ưu tâm chỉ miếu đường.
Thanh thi ngư điểu cộng,
Giai cú chỉ lan hương.
Hứng tận trung lưu phản,
Sơn gian nhật dĩ hoàng.
Dịch nghĩa
Tiết xuân mơn trớn cảnh khói mây,
Một mái chèo khua làn sóng xanh.
Khí cốt đã thành thói quen sống cùng hồ hải,
Tấm lòng lo lắng chỉ ở miếu đường.
Thơ thanh nhã, chung cùng chim cá,
Câu đẹp toả hương cùng hoa chỉ hoa lan.
Hứng đã hết từ giữa dòng trở lại,
Trên núi mặt trời đã úa vàng.
Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang (Tiên vân tình nhật tuyết hoa thiên)
鮮雲晴日雪花天,
煙景三春勝柳川。
紅蓼白蘋吟況味,
羅裙綺袖醉因緣。
且談湖海江南士,
休訪風流采石仙。
極浦斜陽歌緩棹,
幾人同載孝廉船。
Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang (Tiên vân tình nhật tuyết hoa thiên)
Tiên vân tình nhật tuyết hoa thiên,
Yên cảnh tam xuân thắng liễu xuyên.
Hồng liễu bạch tần ngâm huống vị,
La quần ỷ tụ tuý nhân duyên.
Thả đàm hồ hải Giang Nam sĩ,
Hưu phỏng phong lưu Thái Thạch tiên.
Cực phố tà dương ca hoãn trạo,
Kỷ nhân đồng tải Hiếu liêm thuyền!
Dịch nghĩa
Mây tươi sáng, trời quang tạnh, một bầu hoa tuyết,
Cảnh sắc ba xuân hơn hẳn con sông rặng liễu.
Rau liễu hồng, rau tần trắng, nguồn thơ ý nhị,
Quần là áo lượt, duyên phận não nùng.
Hãy bàn tới kẻ sĩ hồ hải của đất Giang Nam,
Đừng hỏi vị tiên phong lưu ở Thái Thạch.
Trong bóng chiều, tiếng hát máy đẩy khoan thai trên bến sông xa lắp,
Mấy người đã được chở chung một thuyền với bậc Hiếu liêm!
Chu trung ngẫu thành 舟中偶成
蕭蕭旅鬢傷春暮,
耿耿孤懷怯瘴氛。
俗累不關清興足,
看山看水又看雲。
Chu trung ngẫu thành
Tiêu tiêu lữ mấn thương xuân mộ,
Cảnh cảnh cô hoài khiếp chướng phần.
Tục luỵ bất quan thanh hứng túc,
Khan sơn khan thuỷ hựu khan vân.
Dịch nghĩa
Mái tóc tha hương bơ phờ, thương cho xuân muộn,
Canh cánh nỗi lòng cô đơn, thêm ghê sợ lam chướng.
Khi tục luỵ chẳng vấn vương, cái hứng thanh tao tràn đầy.
Xem núi, xem nước, lại xem mây.
Cổ Sơn Phạm công thị dĩ tiểu phố thi, thả đạo chư công tận dĩ canh hoạ, dư nhân mộ kỳ trần trung nhi hữu nhàn thích chi thú, y vận phú nhất luật
丈室乾坤膝可容,
特抄種樹課兒童。
栽培自有東君巧,
生長何如造化功。
把卷樹間眠午日,
啣杯花下醉春風。
他時倘有過從便,
此樂應須我與公。
Cổ Sơn Phạm công thị dĩ tiểu phố thi, thả đạo chư công tận dĩ canh hoạ, dư nhân mộ kỳ trần trung nhi hữu nhàn thích chi thú, y vận phú nhất luật
Trượng thất càn khôn tất khả dung,
Đặc sao chủng thụ khoá nhi đồng.
Tài bồi tự hữu đông quân xảo,
Sinh trưởng hà như tạo hoá công.
Bả quyển thụ gian miên ngọ nhật,
Hàm bôi hoa hạ tuý xuân phong.
Tha thời thảng hữu quá tòng tiện,
Thử lạc ưng tu ngã dữ công.
Dịch nghĩa
Khoảng trời đất của ngôi nhà nhỏ hẹp, có thể dung thân được,
Chuyên chú chép chuyện trồng cây để dạy bảo trẻ nhỏ.
Vun trồng đã có khéo léo của chúa xuân,
Sinh trưởng sao bằng công phu của tạo hoá.
Ôm sách bên lùm cây ngủ dưới bóng trưa.
Nhắm chén dưới hoa, say trong gió xuân.
Một ngày kia nếu tiện dịp qua lại với nhau,
Thì thú vui này cần phải có tôi với ông.
Cửu nguyệt Băng Hồ tướng công tịch thượng
蓬鬢瀟瀟黑帽沙,
隨風曉入相公家。
人生百歲重陽幾,
秋色三分九月多。
就解愁中應有酒,
得行樂地可無花。
茫然一醉酬佳節,
長笑西窗發浩歌。
Cửu nguyệt Băng Hồ tướng công tịch thượng
Bồng mấn tiêu tiêu hắc mạo sa,
Tùy phong hiểu nhập tướng công gia.
Nhân sinh bách tuế trùng dương kỷ,
Thu sắc tam phân cửu nhật đa.
Tựu giải sầu trung ưng hữu tửu,
Đắc hành lạc địa khả vô hoa.
Mang nhiên nhất tuý thù giai tiết,
Trường tiếu tây song phát hạo ca.
Dịch nghĩa
Tóc rối bơ phờ trong chiếc mũ sa đen,
Sáng ngày theo gió vào nhà Tướng công.
Đời người trăm năm, được mấy tết Trùng dương?
Mầu sắc ba tháng thu, tháng chín là đậm nhất.
Trong lúc giải sầu, cần phải có rượu,
Được nơi vui vẻ, lẽ nào không có hoa?
Mơ màng say tỉnh, tạ lòng giai tiết,
Cười giòn trước gió tây, cất tiếng hát vang.
Cửu nguyệt thôn cư độc chước 九月村居獨酌
村醪酌罷自談詩,
欲把幽懷更向誰?
荒徑人行秋色少,
故園雨勒菊花遲。
龍山後會知何日?
彭澤歸心最此時。
萬事悠悠拚一醉,
了知身到鳳凰池。
Cửu nguyệt thôn cư độc chước
Thôn lao chước bãi tự đàm thi,
Dục bả u hoài cánh hướng thuỳ?
Hoang kính nhân hành thu sắc thiếu,
Cố viên vũ lặc cúc hoa trì.
Long Sơn hậu hội tri hà nhật?
Bành Trạch quy tâm tối thử thì.
Vạn sự du du phiên nhất tuý,
Liễu tri thân đáo phụng hoàng trì.
Dịch nghĩa
Rượu quê rót cạn, một mình ngân thơ,
Muốn giãi nổi lòng sâu kín, biết nói cùng ai?
Trên lối đi hoang rậm, sắc thu đã phai,
Trong vườn cũ ít mưa, hoa cúc nở muộn.
Sau cuộc họp Long Sơn, biết ngày nào nữa?
Lòng về Bành Trạch, chính lúc này đây!
Muôn việc triền miên, dành một cuộc say,
Mới biết thân này đã đến ao Phượng Hoàng!
Diệp mã nhi phú 葉馬兒賦
若有物兮至微,闖妙巧兮化機。
何靈靈而異異,復怪怪而奇奇。
形雖虫之特肖,身是葉之皆為。
蒐圖經於往牒,竟莫識而莫知。
茲非金甌山莊之樹上而化作葉馬兒者乎。
觀其:
蔥蒨彩浮,權奇秀擢。
背豎脊兮亙連,腹橫文兮隱約。
彼角彼蹄,孰剪孰削?
溯想像於鴻蒙,苑龍馬之相若。
跡雖傍於林泉,志寔馳於寥廓。
憩緱嶺之月明,晞扶桑之曉濯。
風搖枝影,驚玉勒之將揮。
霞轉樹腰,恍金羈之初絡。
適遇園丁,如逢伯樂。
轉眄乎青林之側,羅置乎綺席之前。
歡承諾一,價重金千。
彼集蓼之桃蟲,猶見歌於周頌。
而在桑之藿蠋,尚播詠於豳篇。
矧是物之至微,寓化工之深意。
不生乎寬閒之野,而托跡於洞天。
不處乎寂寞之濱,而來遊於福地。
得非卉中之靈,毛中之異乎。
俯仰今古,千載符契。
治水畢而龜程,作經成而麟至。
諒氣應之適然,亦聖賢之力致。
我聖相:心造化之心以為心,智造化之智以為智。
手天尺而締匠乎乾坤,躬化鈞而陶成乎庶彙。
凡賦形肖質於兩間者,莫不鼓舞乎春風沐浴乎和氣。
生者樂其生,遂者得其遂。
工者程其能,術者售其技。
至茲蜎蝡之微虫,亦效巧心之一試。
因觀物以興懷,默感孚乎氣類。
其紀述也,唐叔得嘉禾之書。
其賞玩也,成王無剪桐之戲。
苟非造物之妙,化工之至,安能致是乎!
仰惟:聖智之能,而非眾人之所可議也。
竊又:反覆天心,紬繹人事。
與其生樹上靈異之虫,孰若產人中俊逸之才,高邁之士?
與其詠馬兒之詩,孰若講魯頌有駜之章,究魯論德冀之旨?
然而物之靈異者,猶且愛之,況賢於物而最靈最異者乎。
願充愛物之心,而為愛賢之心,推待物之志,而為待賢之志。
觀樹葉則思棫樸作人之方,菁莪育才之義。
玩馬兒則念騶虞,麟趾之仁,關雎,鵲巢之美。
材館之下,駿可巿而金可捐。
賓幕之間,溫可招而石可致。
使廊廟臻肖像之求,山澤奮臥龍之起。
夫如是則,鋪張宏休,詠歌盛德,顧不光大而燁韙者耶?
嗟微生之何修,幸遭逢於盛際。
忝入幕之嘉賓,苛命題之盛意。
殫刻楮之賤工,效彫虫之末技。
記微物以野懷,獻得賢為上瑞!
Diệp mã nhi phú
Nhược hữu vật hề chí vi, sấm diệu xảo hề hoá ky (cơ).
Hà linh linh nhi dị dị, phục quái nhi kỳ kỳ.
Hình tuy trùng chi đặc tiếu, thân thị diệp chi giai vi.
Sưu đồ kinh ư vãng điệp, cánh mạc thức nhi mạc tri.
Tư phi Kim Âu sơn trang chi thụ thượng nhi hoá tác diệp mã nhi giả hồ!
Quan kỳ:
Thông thiến thái phù, quyền kỳ tú trạc.
Bối thụ tích hề cắng liên, phúc hoành văn hề ẩn ước.
Bỉ giác bỉ đề, thục tiễn thục tước?
Tố tưởng tượng ư hồng mông, uyển long mã chi tương nhược.
Tích tuy bạng ư lâm tuyền, chí tẩm trì ư liêu khoách.
Khế Hầu Lĩnh chi nguyệt minh, hy Phù Tang chi hiểu trạc.
Phong dao chi ảnh, kinh ngọc lặc chi tương huy.
Hà chuyển thụ yêu, hoảng kim ky chi sơ lạc.
Thích ngộ viên đinh, như phùng Bá Nhạc.
Chuyển miện hồ thanh lâm chi trắc, la trí hồ ỷ tịch chi tiền.
Hoan thừa nặc nhất, giá trọng kim thiên.
Bỉ tập liệu chi đào trùng, do kiến ca ư “Chu tụng”.
Nhi tại tang chi hoắc thục, thượng bá vịnh ư “Mân thiên”.
Thẩn thị vật chi chí vi, ngụ hoá công chi thâm ý.
Bất sinh hồ khoan nhàn chi dã, nhi thác tích ư động thiên.
Bất xứ hồ tịch mịch chi tân, nhi lai du ư phúc địa.
Đắc phi huỷ trung chi linh, mao trung chi dị hồ!
Phủ ngưỡng kim cổ, thiên tải phù khế.
Trị thuỷ tất nhi qui trình, tác kinh thành nhi lân chí.
Lượng khí ứng chi thích nhiên, diệc thánh hiền chi lực trí.
Ngã Thánh tướng: tâm tạo hoá chi tâm dĩ vi tâm; trí tạo hoá chi trí dĩ vi trí.
Thủ thiên xích nhi đế tượng hồ càn khôn, cung hoá quân nhi đào thành hồ thứ vị.
Phàm phú hình tiếu chất ư lưỡng gian giả, mạc bất cổ vũ xuân phong mộc dục hồ hoà khí.
Sinh giả lạc kỳ sinh, tuỵ giả đắc kỳ tuỵ.
Công giả trình kỳ năng, thuật giả thụ kỳ kỹ.
Chí tư quyên nhu chi vi trùng, diệc hiệu xảo tâm chi nhất thí.
Nhân quan vật dĩ hưng hoài, mặc cảm phu hồ khí loại.
Kỳ kỷ thuật dã, Đường Thúc đắc Gia Hoà chi thư.
Kỳ thưởng ngoạn dã, Thành Vương vô tiễn đồng chi hí.
Cẩu phi tạo vật chi diệu, hoá công chi chí, an năng trí thị hồ!
Ngưỡng duy: thánh trí chi năng, nhi phi chúng nhân chi sở khả nghị dã.
Thiết hựu: phản phúc thiên tâm, trừu dịch nhân sị (sự).
Dữ kỳ sinh thụ thượng linh dị chi trùng, thục nhược sản nhân trung tuấn dật chi tài, cao mại chi sĩ?
Dữ kỳ vịnh “Mã nhi” chi thi, thục nhược giảng “Lỗ tụng” “Hữu bật” chi chương, cứu “Lỗ luận” “Đức ký” chi chỉ?
Nhiên nhi vật chi linh dị giả, do thả ái chi; huống hiền ư vật nhi tối linh tối dị giả hồ!
Nguyện sung ái vật chi tâm, nhi vi ái hiền chi tâm; suy đãi vật chi chí, nhi vi đãi hiền chi chí.
Quan thụ diệp tắc tư “Vực phốc” tác nhân chi phương, “Thanh nga” dục tài chi nghĩa.
Ngoạn “Mã nhi” tắc niệm “Sô ngu”, “Lân chỉ” chi nhân, “Quan thư”, “Thước sào” chi mỹ.
Tài quán chi hạ, tuấn khả thị nhi kim khả quyên.
Tân mạc chi gian, Ôn khả triệu nhi Thạch khả trí.
Sử lang miếu trăn tiếu tượng chi cầu, sơn trạch phấn ngoạ long chi khởi.
Phù như thị tắc phô trương hoằng hưu, vịnh ca thịnh đức, cố bất quang đại nhi diệp vĩ giả da?
Ta vi sinh chi hà tu, hạnh tao phùng ư thịnh tế.
Thiểm nhập mạc chi gia tân, hà mệnh đề chi thịnh ý.
Đàn khắc chử chi tiện công, hiệu điêu trùng chi mạt kỹ.
Ký vi vật dĩ thư hoài, hiến đắc hiền vi thượng thuỵ!
Du Côn Sơn 遊崑山
一笻山上柱雲煙,
迴首塵埃路隔千。
雨後線聲流簌簌,
天晴嵐氣靜涓涓。
百年浮世人皆夢,
半日偷閒我亦仙。
興去欲來僧院宿,
昏鍾催月掛峰前。
Du Côn Sơn
Nhất cùng sơn thượng trụ vân yên,
Hồi thủ trần ai lộ cách thiên.
Vũ hậu tuyến thanh lưu thốc thốc,
Thiên tình lam khí tịnh quyên quyên.
Bách niên phù thế nhân giai mộng,
Bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên.
Hứng khứ dục lai tăng viện túc,
Hôn chung thôi nguyệt quải phong tiền.
Dịch nghĩa
Một chiếc gậy chống khói mây trên núi,
Ngoảnh lại chốn bụi bặm, cách xa ngàn dặm.
Sau mưa, tiếng suối chảy ầm ầm,
Trời tạnh, lam chướng sạch lầu lầu.
Cuộc phù thế trăm năm, người người đều như mộng,
Trộm cái nhàn nửa ngày, ta cũng là tiên.
Hứng đã hết, muốn đến chùa nghỉ,
Chuông chiều giục trăng treo trước núi.
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến quý độc giả những trang thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Nguyễn Phi Khanh. Qua đó ta hiểu thêm được ngòi bút tài hoa cùng phong cách sáng tác thơ độc đáo của ông. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất nhé! Thân Ái!