Nguyễn Phi Khanh là thân sinh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Ông là một người tài giỏi và có một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Những thi phẩm của ông mang những nỗi niềm cùng những triết lý sâu sắc đi sâu vào tâm hồn bạn đọc. Hãy cùng uct.edu.vn điểm qua những tuyệt phẩm hiếm có của ông nhé!
Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác
半生塵土負登臨,
光景蹉跎便到今。
浮世百年真一瞬,
古人片樂值千金。
前川午日傍花興,
沂水春風與物心。
仰止高山懷曩哲,
澗河路次正幽尋。
Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác
Bán sinh trần thổ phụ đăng lâm,
Quang cảnh ta đà tiện đáo câm (kim).
Phù thế bách niên chân nhất thuấn,
Cổ nhân phiến lạc trị thiên câm (kim).
Tiền xuyên ngọ nhật bàng hoa hứng,
Nghi thuỷ xuân phong dữ vật tâm.
Ngưỡng chỉ cao sơn hoài nẵng triết,
Giản hà lộ thứ chính u tầm.
Dịch nghĩa
Nửa đời gió bụi, phụ cảnh núi sông,
Ngày tháng sa đà, mãi đến ngày hôm nay.
Cuộc đời trăm năm, thực chỉ như một chớp mắt,
Vui chơi một khắc, người xưa đánh giá đến ngàn vàng.
Cái thú kề hoa ngắm sông phía trước, trong buổi trời trưa,
Lòng cùng cảnh vật sông Nghi trong gió xuân.
Ngước nhìn ngọn núi cao, nhớ tới những bậc hiền xưa,
Dừng lại bên suối, tìm đúng cảnh thanh u.
Dụng Trịnh Sinh lưu biệt vận dĩ biệt chi
春風倒我醁醽瓢,
明月隨君桂棹遙。
親舍好循溫清候,
世途甘卸利名鑣。
雪山昨夢尋鄉里,
湖海茲遊隔巿朝。
後夜相思無覓處,
南雲翔雁正飄飄。
Dụng Trịnh Sinh lưu biệt vận dĩ biệt chi
Xuân phong đảo ngã lục linh biều,
Minh nguyệt tuỳ quân quế trạo diêu (dao).
Thân xá hảo tuần ôn thanh hậu,
Thế đồ cam tả lợi danh tiêu.
Vân sơn tạc mộng tầm hương lý,
Hồ hải tư du cách thị triều.
Hậu dạ tương tư vô mịch xứ,
Nam vân tường nhạn chính phiêu phiêu.
Dịch nghĩa
Gió xuân thổi nghiêng bầu rượu của ta,
Trăng sáng theo máy chèo quế của anh mà đi xa.
Trong ngôi nhà của cha mẹ hãy theo thời tiết ấm lạnh.
Trên đường đời đành gỡ bỏ cái dàm danh lợi.
Giấc mộng núi mây ngày trước tìm về quê hương,
Chuyến chơi hồ hải này cách xa thị triều.
Đêm mai nhớ nhau không biết tìm ở nơi nào,
Nơi đám mây phía nam, bầy nhạn đang lượn bay phơi phới.
Dữ Chương Giang đồng niên Trương thái học
憶昔遭逢珥水邊,
兩床燈戶膝初連。
青衫各走紅塵裡,
綠鬢相看白酒前。
薇月芹風今異調,
硯旗殿袞舊同年。
慇懃別後須鞭策,
聖主方今正急賢。
Dữ Chương Giang đồng niên Trương thái học
Ức tích tao phùng Nhị thuỷ biên,
Lưỡng sàng đăng hộ tất sơ liên.
Thanh khâm các tẩu hồng trần lý,
Lục mấn tương khan bạch tửu tiền,
Vi nguyệt cần phong kim dị điệu,
Nghiễn kỳ điện cổn cựu đồng niên.
Ân cần biệt hậu tu tiên sách,
Thánh chúa phương kim chính cấp hiền.
Dịch nghĩa
Nhớ lại trước đây gặp nhau ở bên sông Nhị,
Bên đèn quán trọ kề gối liền giường lần đầu.
Một vạt áo xanh, đều xuôi ngược trong đám bụi hồng,
Hai mái tóc xanh, cùng nhìn nhau trước ly rượu trắng.
Trăng vi gió cần nay được tuyển bổ khác nhau,
Cờ trong nghiên, cổn trên điện, xưa là đồng niên.
Ân cần nhủ nhau sau khi từ biệt đều nên gắng gỏi,
Nay là lúc thánh chúa đang gấp cầu người hiền.
Đề Huyền Thiên tự 題玄天寺
仙家一簇聳雲岑,
路入煙蘿窅窱深。
樹影長年圍古澗,
花枝清午囀幽禽。
官閒我得修身訣,
老去天知學道心。
若見赤松憑寄語,
佳遊何日果幽尋。
Đề Huyền Thiên tự
Tiên gia nhất thốc tủng vân sầm,
Lộ nhập yên la yểu điệu thâm.
Thụ ảnh trường niên vi cổ giản,
Hoa chi thanh ngọ chuyển u cầm.
Quan nhàn ngã đắc tu thân quyết,
Lão khử thiên tri học đạo tâm.
Nhược kiến Xích Tùng bằng ký ngữ,
Giai du hà nhật quả u tầm.
Dịch nghĩa
Một toà nhà tiên cao ngất từng mây,
Đường vào chốn giây leo khói phủ sâu thăm thẳm.
Bóng cây quanh năm vây dòng suối cũ,
Buổi trưa thanh vắng, trên cành hoa vắng tiếng chim líu lo.
Quan nhàn hạ, ta tìm được bí quyết tu thân.
Già đi rồi, lòng học đạo đã có trời biết.
Nếu thấy vị tiên Xích Tùng, nhờ nhắn một lời,
Đến ngày nào mới thật có cuộc chơi hứng thú ở chốn thanh vắng.
Đề Tiên Du tự 題仙遊寺
天德山河古帝都,
名藍形勝小方壺。
人間何處非塵跡,
虛訪神仙事己無。
Đề Tiên Du tự
Thiên Đức sơn hà cổ đế đô,
Danh lam hình thắng tiểu Phương Hồ.
Nhân gian hà xứ phi trần tích,
Hư phóng thần tiên sự dĩ vô.
Dịch nghĩa
Núi sông Thiên Đức là đế đô thời xưa,
Thắng cảnh tại ngôi chùa nổi tiếng này là nơi Bồng Lai nhỏ.
Trên cõi đời chỗ nào chẳng là dấu vết cũ,
Sao phải tìm ở hư vô chuyện thần tiên có hay không!
Đông Ngạn xuân mộng 東岸春夢
瀘水東邊瀘岸村,
霏霏江雨暗前門。
耳邊斷送春歸去,
萬綠叢中杜宇魂。
Đông Ngạn xuân mộng
Lô thuỷ đông biên Lô ngạn thôn,
Phiên phiên hồng vũ ám tiền môn.
Nhĩ biên đoạn tống xuân quy khứ,
Vạn lục tùng trung đỗ vũ hồn.
Dịch nghĩa
Xóm ở về phía đông trên bờ sông Lô,
Mưa mờ mịt trên sông làm tối trước cửa.
Bên tai vẳng tiếng tiễn xuân đi,
Ấy là hồn chim đỗ vũ trong muôn khóm cây xanh.
Gia viên lạc 家園樂
故園亂後有先廬,
六歲兒童頗愛書。
啼鳥落花深巷永,
涼風殘夢午窗虛。
心從閒處千憂失,
學到充時四體舒。
逐物勞人休誤我,
安仁志已遂幽居。
Gia viên lạc
Cố viên loạn hậu hữu tiên lư,
Lục tuế nhi đồng phả ái thư.
Đề điểu lạc hoa thâm hạng vĩnh,
Lương phong tàn mộng ngọ song hư.
Tâm tòng nhàn xứ thiên ưu thất,
Học đáo sung thời tứ thể thư,
Trục vật lao nhân hưu ngộ ngã,
An nhân chí dĩ toại u cư.
Dịch nghĩa
Sau loạn, trong vườn cũ còn mái nhà xưa,
Đứa trẻ sáu tuổi đã ham đọc sách.
Chim kêu, hoa rụng, ngõ sâu vắng vẻ,
Gió lạnh, mộng tàn, song trưa trống trải.
Lòng hướng về cái nhàn, ngàn mối lo tan hết,
Học đến lúc sung mãn, chân tay thư thái.
Chạy theo vật dục, người đời nhọc nhằn, ta chờ lầm nữa,
Được ở chỗ thanh u, chí An Nhân đã toại rồi.
Giang hành thứ Hồng Châu kiểm chính vận
長江滾滾片帆東,
海闊天高望莫窮。
夾岸船窗青草雨,
前沙棹影白蘋風。
百年豪傑戰爭地,
萬古山河帶礪功。
憑仗新詩作圖誌,
行觀四海軌文同。
Giang hành thứ Hồng Châu kiểm chính vận
Trường giang cổn cổn phiến phàm đông,
Hải khoát thiên cao vọng mạc cùng!
Giáp ngạn thuyền song thanh thảo vũ,
Tiền sa trạo ảnh bạch tần phong.
Bách niên hào kiệt chiến tranh địa,
Vạn cổ sơn hà đới lệ công,
Bằng trượng tân thi tác đồ chí.
Hành quan tứ hải quĩ văn đồng.
Dịch nghĩa
Dòng sông cuồn cuộn, cánh buồm về đông,
Biển rộng trời cao, trông không biết đâu là cùng!
Cửa sổ thuyền giáp bờ, làn mưa trên cỏ xanh,
Bóng mái chèo trước bãi cát, luồng gió trên rau tần trắng.
Đây là nơi chiến trận của các hào kiệt từ hàng trăm năm trước,
Công lao ấy làm cho non sông bền vững lâu dài muôn thuở.
Xin nhờ bài thơ mới này làm bức hoạ đồ ghi lại,
Rồi sẽ thấy bốn biển chung một kiểu xe, cùng một thứ chữ.
Giang thôn xuân cảnh 江村春景
繞村春柳綠成堆,
一帶溪流抱徑迴。
岸協雨晴煙色薄,
杜鵑聲急楝花開。
Giang thôn xuân cảnh
Nhiễu thôn xuân liễu lục thành đôi,
Nhất đới khê lưu bão kính hồi.
Ngạn hiệp vũ tình yên sắc bạc,
Đỗ quyên thanh cấp luyện hoa khai.
Dịch nghĩa
Cây mùa xuân quanh xóm, mầu xanh dày đặc,
Một dòng suối quanh co, ôm lấy lối đi.
Mưa tạnh, ven đê mầu khói nhàn nhạt,
Tiếng đỗ quyên rộn ràng, hoa xoan đang nở.
Giáp Tý hạ hạn, hữu sắc chư lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ
炎炎九土正焦燖,
一雨皇天普澤深。
請罪國將行盛禱,
初和民已浹歡心。
臥龍自是人間物,
肖象能為歲旱霖。
徙巿暴尪何用者,
至誠感召古猶今。
Giáp Tý hạ hạn, hữu sắc chư lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ
Viêm viêm cửu thổ chính tiêu tầm.
Nhất vũ hoàng thiên phổ trạch thâm.
Thỉnh tội quốc tương hành thịnh đảo,
Sơ hoà dân dĩ thiếp hoan tâm.
Ngoạ long tự thị nhân gian vật,
Tiêu tượng năng vi tuế hạn lâm.
Tỉ thị bộc uông hà dụng giả,
Chí thành cảm triệu cổ do câm (kim).
Dịch nghĩa
Rừng rực đất đai khắp nước đang lúc khô cháy,
Một trận mưa của trời gieo khắp ơn sâu.
Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mưa trọng thể,
Trời mới đem lại khí hoà, dân đã thấm khắp niềm vui.
Rồng nằm vốn là con vật của nhân gian,
Tiếu tượng của trời có thể hẹn mưa dầm trong năm hạn.
Chẳng phải dùng làm gì cái lễ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ,
Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời.
Nguyễn Phi Khanh là một nhà thơ, một vị quan thanh liêm của nước ta. Ông luôn cho ra đời những trang thơ về thế sự đất nước cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Hãy đọc và suy ngẫm những giá trị mà những trang thơ mang đến nhé!