Ngay bây giờ xin mời các bạn đi theo chúng tôi cùng nhau theo dõi những trang thơ hấp dẫn nhất của Nguyễn Phi Khanh nhé! Ông là một gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Với ngòi bút tinh tế cùng những thủ pháp độc đáo, thơ của ông luôn thu hút sự chú ý của bạn đọc sâu sắc. Nối tiếp phần 6, mình hãy cùng nhau đến với những tuyệt phẩm còn lại của ông nhé!

Tống hành nhân Đỗ Tòng Chu 送行人杜從周

芹水春風桂殿秋,
科場歷歷憶同遊。
君今又作行人去,
我獨胡為省屬留。
嶺驛雲開豪跨馬,
湖潮雪淨穩登舟。
丈夫送別何須淚,
一笑相看撫蒯緱。

Tống hành nhân Đỗ Tòng Chu

Cần thuỷ xuân phong quế điện thu,
Khoa trường lịch lịch ức đồng du.
Quân kim hựu tác hành nhân khứ,
Ngã độc hồ vi Sảnh thuộc lưu.
Lĩnh dịch vân khai hào khoá mã,
Hồ triều tuyết tịnh ổn đăng châu.
Trượng phu tống biệt hà tu lệ,
Nhất tiếu tương khan phủ khoái câu.

Dịch nghĩa

Gió xuân bến cần, mùa thu cung quế,
Còn nhớ như in bạn cùng đi thi nơi khoa trường.
Nay ông lại ra đi làm chức hành nhân,
Riêng tôi ở lại làm thuộc viên của Sảnh.
Trạm Ngũ Lĩnh mây quang, hào hứng lên ngựa,
Mặt Ngũ Hồ tuyết ráo, êm ái xuống thuyền.
Lúc tiễn biệt, bậc trượng phu cần chi rơi lệ,
Chỉ cười nhìn nhau, vỗ vào bao gươm cỏ khoái là đủ.

Tống kinh sư doãn Nguyễn công vi Hành doanh chiêu thảo sứ 送京師尹阮公為行營招討使

釜中占賊久逋誅,
四海人神怨憤俱。
誰卜百年遺此虜,
公煩寸舌討狂胡。
金戈鐵馬鯨猊沒,
羽檄星麾象兕驅。
指日皇風清絕域,
大功出任屬吾儒。

Tống kinh sư doãn Nguyễn công vi Hành doanh chiêu thảo sứ

Phủ trung Chiêm tặc cửu bô tru,
Tứ hải nhân thần oán phẫn câu.
Thuỳ bốc bách niên di thử lỗ,
Công phiền thốn thiệt thảo cuồng Hồ.
Kim qua thiết mã kình nghê một,
Vũ hịch tinh huy tượng huỷ khu.
Chỉ nhật hoàng phong thanh tuyệt vực,
Đại công xuất nhậm thuộc ngô nho.

Dịch nghĩa

Giặc Chiêm Thành như cá trong nồi, trốn tránh tội chết đã lâu,
Người và thần bốn bể thảy đều căm giận.
Ai ngờ đâu trăm năm nay sót lại đám giặc đó,
Ông chịu khó dùng tấc lưỡi đánh bọn rợn ngông cuồng.
Giáo vàng ngựa sắt trừ loài cá kình cá nghê,
Hịch lông cờ sao đuổi lũ voi trâu rừng.
Chả mấy chốc gió nhà vua quét sạch cõi xa,
Ra gánh công việc lớn, thuộc về nhà nho ta.

Tống thái học sinh Nguyễn Hán Anh quy Hồng Châu 送太學生阮漢英歸洪州

燈前昨夜話匆匆,
馬首今朝跨曉風。
望眼但懸天闕北,
歸心寧住水溪東。
槐庭月白憐棲鵲,
蘆岸秋高惜別鴻。
稻雪橙香村釀熟,
塵埃嗟我絆孤蹤。

Tống thái học sinh Nguyễn Hán Anh quy Hồng Châu

Đăng tiền tạc dạ thoại thông thông,
Mã thủ kim triêu khoá hiểu phong.
Vọng nhãn đãn huyền thiên khuyết bắc,
Qui tâm ninh trú thuỷ khê đông.
Hoè đình nguyệt bạch lân thê thước,
Lô ngạn thu cao tích biệt hồng.
Đạo tuyết tranh hương thôn nhưỡng thục,
Trần ai ta ngã bạn cô tung.

Dịch nghĩa

Đêm qua trước đèn chuyện trò vội vã,
Sáng nay đã lên ngựa lướt gió sớm.
Mắt chỉ trông bầu trời cửa bắc.
Lòng về há ở bên khe nước miền đông.
Thương chim thước đậu sân hoè dưới trăng sáng,
Nhớ mãi chim hồng dã biệt xa nơi bờ lao trong tiết thu đậm.
Nếp trắng, chanh thơm, rượu quê vừa chín,
Than cho tôi dấu chân cô đơn còn vướng bụi trần.

Tống thái trung đại phu Lê Dung Trai bắc hành 送太中大夫黎庸齋北行

黎家人物越邦香,
公也籃青出異常。
一郡生靈惟借寇,
九重使者重煩張。
匣中秋水清長路,
馬上春風聽異鄉。
早向南臺專對了,
經歸夔禹佐吾皇。

Tống thái trung đại phu Lê Dung Trai bắc hành

Lê gia nhân vật Việt bang hương,
Công dã lam thanh xuất dị thường.
Nhất quận sinh linh duy tá Khấu,
Cửu trùng sứ giả trọng phiền Trương.
Hạp trung thu thuỷ thanh trường lộ,
Mã thượng xuân phong thính dị hương.
Tảo hướng Nam Đài chuyên đối liễu,
Kinh quí Quỳ, Vũ tá ngô hoàng.

Dịch nghĩa

Người họ Lê là hương thơm nước Việt,
Ông là người vượt lên khác thường trong đám lam thanh.
Dân trong một quận chỉ xin cho mượn họ Khấu ở lại,
Nhưng sứ giả của triều đình lại phải phiền đến họ Trương.
Nước mùa thu trong hộp quét sạch bụi đường trường,
Gió xuân trên mình ngựa mặc sức ruổi rong nơi đất khách.
Hãy sớm đến Nam Đài để làm việc chuyên đối cho chu tất,
Khi trở về đem tài năng của Quỳ, Vũ phò tá vua ta.

Tống Trung sứ Vũ Thích Chi 送中使武適之

五色雲邊出使星,
凜然忠義照人明。
春臨梅驛霜蹄急,
雪霽淮潮玉節清。
天地北南雙眼闊,
山河夷險寸心平。
慇懃今日送君別,
杯酒難勝萬里情。

Tống Trung sứ Vũ Thích Chi

Ngũ sắc vân biên xuất sứ tinh,
Lẫm nhiên trung nghĩa chiếu nhân minh.
Xuân lâm Mai dịch sương đề cấp,
Tuyết tễ Hoài triều ngọc tiết thanh.
Thiên địa bắc nam song nhãn khoát,
Sơn hà di hiểm thốn tâm bình.
Ân cần kim nhật tống quân biệt,
Bôi tửu nan thăng vạn lý tình.

Dịch nghĩa

Bên áng mây năm sắc xuất hiện ngôi sao sứ thần,
Khí tiết trung nghĩa lẫm liệt dọi sáng lòng người.
Xuân tới trạm Mai, vó ngựa trong sương vội vã,
Tuyết quang Hoài Thuỷ, tiết ngọc trong sáng.
Trời đất có bắc có nam, tầm mắt thênh thang,
Núi sông chỗ bằng chỗ hiểm, tấc lòng trung trinh.
Hôm nay ân cần tiễn biệt ngài,
Chén rượu khôn ngăn mối tình muôn dặm.

Trình Thanh Hư động chủ kỳ 1 呈清虛洞主其一 •

朔吹稜稜戒敝裘,
廟堂心事蹟林丘。
虞庭已作來儀鳳,
傅野聊還濟巨舟。
雲衲細參黃糱話,
霞心高揖赤松遊。
憑將繡句鐫山骨,
紹慶元功鎮諒州。

Trình Thanh Hư động chủ kỳ 1

Sóc xuý lăng lăng giới tệ cầu,
Miếu đường tâm sự tích lâm khâu.
Ngu đình dĩ tác lai nghi phượng,
Phó dã liêu hoàn tế cự châu.
Vân nạp tế tham Hoàng Nghiệt thoại
Hà tâm cao ấp Xích Tùng du.
Bằng tương tú cú tuyên sơn cốt,
Thiệu Khánh nguyên công trấn Lạng Châu.

Dịch nghĩa

Gió bắc vun vút đe doạ áo cầu rách,
Lòng dạ ở miếu đường, mà dấu chân ở rừng núi.
Đã làm chim phượng đến múa ở sân nhà Ngu,
Rồi lại về Nội Phó, chèo thuyền lớn qua sông.
Áo nạp như mây, tụng niệm lời kinh Hoàng Nghiệt.
Lòng son tựa ráng, chắp tay theo tiên Xích Tùng.
Hãy đem lời đẹp khắc vào sông núi,
Vị nguyên huân đời Thiệu Khánh trấn giữ Lạng Châu.

Trình Thanh Hư động chủ kỳ 2 呈清虛洞主其二

山中是處擬菟裘,
歲晚言旋卜一丘。
苔蘚半荒靈運履,
雪蓬空繫子猷舟。
忙中歲月匆匆過,
夢裡林泉歷歷遊。
想得清虛題詠遍,
不妨佳句到皇州。

Trình Thanh Hư động chủ kỳ 2

Sơn trung thị xứ nghĩ Đồ Cầu,
Tuế vãn ngôn toàn bốc nhất khâu.
Đài tiển bán hoang Linh Vận lý,
Tuyết bồng không hệ Tử Du châu.
Mang trung tuế nguyệt thông thông quá,
Mộng lý lâm tuyền lịch lịch du.
Tưởng đắc Thanh Hư đề vịnh biến,
Bất phương giai cú đáo hoàng châu.

Dịch nghĩa

Nơi núi non này có thể sánh với Đồ Cầu,
Tuổi già sẽ quay về chọn lấy một cái gò.
Dấu giày Linh Vận còn mờ mờ một nửa dưới lớp rêu xanh,
Con thuyền Tử Du vẫn buộc không trong làn tuyết rối.
Trong bận rộn năm tháng trôi đi vùn vụt,
Nhưng trong mơ vẫn dạo chơi khắp suối rừng.
Nghĩ tới việc đề vịnh khắp động Thanh Hư,
Chẳng ngại câu thơ hay truyền tới nhà vua.

Trùng du xuân giang hữu cảm 重遊春江有感

去年三月珥河濱,
麗服相隨五六人。
岸草無情春自綠,
江流在眼客還新。
清吟雨後邀紅葉,
緩棹風前過白蘋。
長恐寸心遙魏闕,
五湖偏載讀書身。

Trùng du xuân giang hữu cảm

Khứ niên tam nguyệt Nhị Hà tân,
Lệ phục tương tuỳ ngũ lục nhân.
Ngạn thảo vô tình xuân tự lục,
Giang lưu tại nhãn khách hoàn tân.
Thanh ngâm vũ hậu yêu hồng diệp,
Hoãn trạo phong tiền quá bạch tần.
Trường khủng thốn tâm giao nguỵ khuyết,
Ngũ Hồ thiên tải độc thư thân.

Dịch nghĩa

Tháng ba năm ngoái trên bến Nhị Hà,
Mặc áo đẹp theo sau có năm, sáu người.
Bờ cỏ vẫn vô tình, xuân về tự tốt tươi,
Dòng sông vẫn ở trước mắt như xưa mà khách thì lại mới.
Sau cơn mưa, ngâm nhè nhẹ đón chiếc lá hồng,
Trước làn gió, chèo khoan thai qua bãi tần trắng.
Luống sợ tấc lòng xa nơi cung khuyết,
Để chiếc thuyền Ngũ Hồ riêng chở kẻ thư sinh.

Trung thu cảm sự 中秋感事

金波自海漫空流,
河漢微雲淡淡收。
雨後池臺多貯月,
客中情緒下勝秋。
願憑天上清光夜,
遍照人間疾苦愁。
長使國家多暇日,
五湖歸夢到扁舟。

Trung thu cảm sự

Kim ba tự hải mạn không lưu,
Hà Hán vi vân đạm đạm thu.
Vũ hậu trì đài đa trữ nguyệt,
Khách trung tình tự bất thăng thu.
Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ,
Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.
Trường sử quốc gia đa hạ nhật,
Ngũ hồ quy mộng đáo biển chu.

Dịch nghĩa

Sóng vàng như biển, tràn ngập tầng không,
Dòng Ngân Hán lưa thưa mây đọng lại.
Sau trận mưa, ao đài chứa đầy ánh trăng,
Nỗi lòng nơi đất khách khôn xiết vẻ thu!
Xin nhờ cái đêm trong sáng ở trên trời kia.
Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này.
Mãi mãi làm cho nước nhà được những ngày nhàn hạ,
Thì giấc mơ quay về Năm hồ sẽ tới được chiếc thuyền con.

Trung thu ngoạn nguyệt hữu hoài 中秋玩月有懷

匆匆客裡又中秋,
月自風清獨自愁。
遙望故人襟韻在,
騷魂幾度繞南樓。

Trung thu ngoạn nguyệt hữu hoài

Thông thông khách lý hựu trung thu,
Nguyệt tự phong thanh độc tự sầu.
Dao vọng cố nhân khâm vận tại,
Tao hồn kỷ độ nhiễu Nam Lâu.

Dịch nghĩa

Nơi đất khách, thấm thoắt lại đến trung thu,
Gió mát trăng trong, riêng mình buồn.
Xa ngóng cố nhân, vần thơ lòng còn đó,
Hồn thơ còn bao độ quanh quất về lầu Nam.

Trừ dạ dụng Đỗ lão vận, chư quân tịch thượng đồng tác 除夜用杜老韻,諸君席上同作

客中送臘虎亭家,
殘雪猶飄六出花。
天地冬春庭外草,
光陰昏曉樹間鴉。
燈因守歲常常續,
酒為消愁數數賒。
萬事細思看鬢髮,
平明梳洗向東華。

Trừ dạ dụng Đỗ lão vận, chư quân tịch thượng đồng tác

Khách trung tống lạp Hổ Đình gia,
Tàn tuyết do phiêu lục xuất hoa.
Thiên địa đông xuân đình ngoại thảo,
Quang âm hôn hiểu thụ gian nha.
Đăng nhân thủ tuế thường thường tục,
Tửu vị tiêu sầu số số xa.
Vạn sự tế tư khan mấn phát,
Bình minh sơ tẩy hướng Đông Hoa.

Dịch nghĩa

Đất khách, tiễn đưa năm cũ ở nhà Hổ Đình,
Tuyết tàn, vẫn còn bay hoa sáu cánh.
Đông xuân trời đất, đám cỏ ngoài sân,
Sáng tối ngày qua, cây khô quạ rét.
Giữ năm, đèn luôn luôn nối bấc,
Tưới sầu, rượu luôn luôn rót.
Muôn việc nghĩ kỹ, nhìn hai mái tóc,
Sáng ngày chải gội, ra cửa Đông Hoa.

Tuyên chiếu bãi biệt vận phó Nguyễn Viêm 宣詔罷別運副阮炎

長安自昔帝王州,
偶賦皇華作勝遊。
俗雜獠夷民太古,
地宜粳稻歲常秋。
山中過我無苛虎,
境上煩君畜木牛。
王事有程軍政急,
胸懷莫向酒杯休。

Tuyên chiếu bãi biệt vận phó Nguyễn Viêm

Trường An tự tích đế vương châu,
Ngẫu phú Hoàng hoa tác thắng du.
Tục tạp liêu di dân thái cổ,
Địa nghi canh đạo, tuế thường thu.
Sơn trung quá ngã vô hà hổ,
Cảnh thượng phiền quân súc mộc ngưu.
Vương sự hữu trình quân chính cấp,
Hung hoài mạc hướng tửu bôi hưu.

Dịch nghĩa

Trường An từ xưa là đất đế vương,
Ngẫu nhiên làm bài thơ Hoàng hoa, tả cuộc du hành kỳ thắng.
Phong tục xen lẫn man di, vẫn là dân thái cổ,
Đất ưa lúa mố, lúa thơm, năm thường được mùa.
Trong núi không thấy con hùm ngược chính đi qua,
Trong cõi xin phiền đến ông chứa sẵn “mộc ngưu”.
Lệnh vua có thời hạn, việc quân gấp rút,
Xin ông chớ có mê say chén rượu!

Xuân hàn 春寒

凝雲漠漠霧沈沈,
釀作餘寒十日陰。
帶雨有痕粘樹絮,
傷春無語隔花禽。
書齋寂寂惟高枕,
世事悠悠正抱衾。
安得此身如橐籥,
和風噓遍九州心。

Xuân hàn

Ngưng vân mạc mạc vụ trầm trầm,
Nhưỡng tác dư hàn thập nhật âm.
Đái vũ hữu ngân niêm thụ nhứ,
Thương xuân vô ngữ cách hoa cầm.
Thư trai tịch tịch duy cao chẩm,
Thế sự du du chính bão khâm.
An đắc thử thân như thác lược,
Hoà phong khư biến cửu châu tâm.

Dịch nghĩa

Mây đọng ùn ùn, mù sa nặng trĩu,
Trận rét cuối mùa, mười ngày âm u.
Tơ liễu dính trên cây, đeo chuỗi nước mưa thành vệt,
Chim đậu bên hoa, thương xuân lặng tiếng.
Thư phòng vắng vẻ, chỉ có việc cao gối,
Việc đời dằn dặc, chính lúc ôm chăn!
Mong sao thân này được như cái ống bễ,
Thổi ngọn gió hoà khắp lòng người chín châu.

Xương Phù nguyên niên đông, dư tự Nhị Khê ngụ vu thành nam khách xá, cảm kim niệm tích, nhân thành nhập cú, phụng giản tư hình đại phu Đỗ Công, kiêm giản chư đồng chí

客途風雪歲更深,
長向丹霄掛寸心。
亂後交遊非復昔,
城中旅泊到如今。
新愁滾滾憑誰送?
往事悠悠付夢尋。
早晚迴朝將好問,
鬼章何日賀生擒?

Xương Phù nguyên niên đông, dư tự Nhị Khê ngụ vu thành nam khách xá, cảm kim niệm tích, nhân thành nhập cú, phụng giản tư hình đại phu Đỗ Công, kiêm giản chư đồng chí

Khách đồ phong tuyết tuế canh thâm,
Trường hướng đan tiêu quải thốn tâm.
Loạn hậu giao du phi phục tích,
Thành trung lữ bạc đáo như câm (kim)!
Tân sầu cổn cổn bằng thuỳ tống?
Vãng sự du du phó mộng tầm.
Tảo vãn hồi triều tương hảo vấn,
Quỷ, Chương hà nhật hạ sinh cầm?

Dịch nghĩa

Đường khách đầy gió tuyết, mà năm lại gần hết,
Luôn hướng về phía trời hồng mà gửi tấc lòng.
Sau cơn loạn lạc, bạn bè chẳng còn như trước,
Trong thành, dừng chân nơi quán trọ đến hôm nay!
Nỗi buồn mới cuồn cuộn, biết nhờ ai đẩy lùi?
Chuyện xưa kia dài dằng dặc, mặc giấc chiêm bao tìm đến.
Nay mai vào triều sẽ hỏi những tin tốt lành,
Chừng nào thì được chúc mừng việc bắt sống Quỷ, Chương?

Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến quý độc giả những trang thơ vô cùng ấn tượng của nhà thơ Nguyễn Phi Khanh hi vọng các bạn sẽ yêu thích. Cùng nhau đón xem và cảm nhận nhé các bạn.