Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Tuý ngâm tiên sinh 醉吟先生, người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Với những lời ca tụng đó chắc chắn sẽ không ít độc giả tò mò về những thi phẩm của ông.
Bạch lộ 白鷺 • Cò trắng
人生四十未全衰,
我為愁多白髮垂。
何故水邊雙白鷺,
無愁頭上亦垂絲?
Bạch lộ
Nhân sinh tứ thập vị toàn suy,
Ngã vị sầu đa bạch phát thuỳ.
Hà cố thuỷ biên song bạch lộ,
Vô sầu đầu thượng diệc thuỳ ty?
Dịch nghĩa
Người đời bốn mươi tuổi vẫn chưa già,
Ta vì lắm chuyện lo buồn nên tóc bạc.
Nhưng vì sao đôi cò trắng bên dòng nước,
Không có gì buồn mà đầu cũng có tơ trắng rủ?
Bách luyện kính 百煉鏡
百煉鏡,熔范非常規,
日辰處所靈且祗。
江心波上舟中鑄,
五月五日日午時。
瓊粉金膏磨瑩已,
化為一片秋潭水。
鏡成將獻蓬萊宮,
楊州長吏手自封。
人間臣妾不合照,
背有九五飛天龍。
人人呼為天子鏡,
我有一言聞太宗。
太宗常以人為鏡,
鑒古鑒今不鑒容。
四海安危居掌內,
百王治亂懸心中。
乃知天子別有鏡,
不是楊州百煉銅。
Bách luyện kính
Bách luyện kính, dung phạm phi thường quy,
Nhật thần xứ sở linh thả chi.
Giang tâm ba thượng chu trung chú,
Ngũ nguyệt ngũ nhật nhật ngọ thì.
Quỳnh phấn kim cao ma oánh dĩ,
Hoá vi nhất phiến thu đàm thuỷ.
Kính thành tương hiến Bồng Lai cung,
Dương châu trưởng lại thủ tự phong.
Nhân gian thần thiếp bất hợp chiếu,
Bối hữu cửu ngũ phi thiên long.
Nhân nhân hô vi thiên tử kính,
Ngã hữu nhất ngôn văn Thái Tông.
Thái Tông thường dĩ nhân vi kính,
Giám cổ giám kim bất giám dung.
Tứ hải an nguy cư chưởng nội,
Bách vương trị loạn huyền tâm trung.
Nãi tri thiên tử biệt hữu kính,
Bất thị Dương Châu bách luyện đồng.
Bạch Vân tuyền 白雲泉
天平山上白雲泉,
雲自無心水自閑。
何必奔衝山下去,
更添波浪向人間。
Bạch Vân tuyền
Thiên Bình sơn thượng Bạch Vân tuyền,
Vân tự vô tâm thủy tự nhàn.
Hà tất bôn xung sơn hạ khứ ?
Cánh thiêm ba lãng hướng nhân gian.
Bản kiều lộ 板橋路
梁苑城西二十里,
一渠春水柳千條。
若為此路今重過,
十五年前舊板橋。
曾共玉顏橋上別,
不知消息到今朝。
Bản kiều lộ
Lương uyển thành tây nhị thập lý,
Nhất cừ xuân thủy liễu thiên điều.
Nhược vi thử lộ kim trùng quá,
Thập ngũ niên tiền cựu bản kiều.
Tằng cộng ngọc nhan kiều thượng biệt,
Bất tri tiêu tức đáo kim triêu.
Bành Lễ hồ vãn quy 彭蠡湖晚歸
彭蠡湖天晚,
桃花水气春。
鳥飛千白點,
日沒半江輪。
何必為遷客,
無勞是病身。
但來臨此望,
少有不愁人。
Bành Lễ hồ vãn quy
Bành Lễ hồ thiên vãn,
Đào hoa thuỷ khí xuân.
Điểu phi thiên bạch điểm,
Nhật một bán giang luân.
Hà tất vi thiên khách,
Vô lao thị bệnh thân.
Đãn lai lâm thử vọng,
Thiểu hữu bất sầu nhân.
Dịch nghĩa
Cảnh hồ Bành Lễ vào lúc buổi chiều:
Hoa đào, dòng sông và khí trời đều toát ra vẻ xuân.
Chim bay hàng ngàn điểm trắng,
Mặt trời đã lặn một nửa xuống sông.
Đâu cứ phải là người bị đi đày
Mới là người không có việc làm và đau ốm.
Mà lại ngắm cảnh nơi này,
Mới thấy ít có những người không buồn rầu.
Bát nguyệt thập ngũ nhật dạ cấm trung độc trực, đối nguyệt ức Nguyên Cửu
銀臺金闕夕沉沉,
獨宿相思在翰林。
三五夜中新月色,
二千裏外故人心。
渚宮東面煙波冷,
浴殿西頭鐘漏深。
猶恐清光不同見,
江陵卑濕足秋陰。
Bát nguyệt thập ngũ nhật dạ cấm trung độc trực, đối nguyệt ức Nguyên Cửu
Ngân đài kim khuyết tịch trầm trầm,
Độc túc tương tư tại hàn lâm.
Tam ngũ dạ trung tân nguyệt sắc,
Nhị thiên lý ngoại cố nhân tâm.
Chử cung đông diện yên ba lãnh,
Dục điện tây đầu chung lậu thâm.
Do khủng thanh quang bất đồng kiến,
Giang lăng ty thấp túc thu âm.
Bát tuấn đồ 八駿圖
穆王八駿天馬駒,
後人愛之寫為圖。
背如龍兮頸如象,
骨聳筋高脂肉壯。
日行萬里疾如飛,
穆王獨乘何所之?
四荒八極蹋欲遍,
三十二蹄無歇時。
屬車軸折趁不及,
黃屋草生棄若遺。
瑤池西赴王母宴,
七廟經年不親薦。
壁臺南與盛姬遊,
明堂不復朝諸侯。
白雲黃竹歌聲動,
一人荒樂萬人愁。
周從后稷至文武,
積德累功世勤苦。
豈知纔及四代孫,
心輕王業如灰土。
由來尤物不在大,
能蕩君心則為害。
文帝卻之不肯乘,
千里馬去漢道興。
穆王得之不為戒,
八駿駒來周室壞。
至今此物尚稱珍,
不知房星之精下為怪,
八駿圖君莫愛。
Bát tuấn đồ
Mục Vương bát tuấn thiên mã câu,
Hậu nhân ái chi tả vi đồ.
Bối như long hề cảnh như tượng,
Cốt tủng cân cao chỉ nhục tráng.
Nhật hành vạn lý tật như phi,
Mục Vương độc thừa hà sở chi?
Tứ hoang bát cực tháp dục biến,
Tam thập nhị đề vô yết thì.
Thuộc xa trục chiết sấn bất cập,
Hoàng ốc thảo sinh khí nhược di.
Dao Trì tây phó Vương Mẫu yến,
Thất miếu kinh niên bất thân tiến.
Bích Đài nam dữ thịnh cơ du,
Minh đường bất phục triều chư hầu.
Bạch vân hoàng trúc ca thanh động,
Nhất nhân hoang lạc vạn nhân sầu.
Chu tòng Hậu Tắc chí Văn, Vũ,
Tích đức luỹ công thế cần khổ.
Khởi tri tài cập tứ đại tôn,
Tâm khinh vương nghiệp như hôi thổ.
Do lai vưu vật bất tại đại,
Năng đãng quân tâm tắc vi hại.
Văn đế khước chi bất khẳng thừa,
Thiên lý mã khứ Hán đạo hưng.
Mục Vương đắc chi bất vi giới,
Bát tuấn câu lai chu thất hoại.
Chí kim thử vật thượng xưng trân,
Bất tri phòng tinh chi tinh hạ vi quái,
Bát tuấn đồ quân mạc ái.
Bệnh trung hoạ Tây phương biến tương tụng 病中畫西方變相頌
极樂世界清凈土,
無諸惡道及眾苦。
愿如我身病苦者,
同生無量壽佛所。
Bệnh trung hoạ Tây phương biến tương tụng
Cực Lạc thế giới thanh Tịnh thổ,
Vô chư ác đạo cập chúng khổ.
Nguyện như ngã thân bệnh khổ giả,
Đồng sinh Vô Lượng Thọ Phật sở.
Bội hoàng 捕蝗 • Bắt trùng lúa
捕蝗捕蝗誰家子,
天熱日長饑欲死。
興元兵久傷陰陽,
和氣蠱蠹化為蝗。
始自兩河及三輔,
薦食如蠶飛似雨。
雨飛蠶食千里間,
不見青苗空赤土。
河南長吏言憂農,
課人晝夜捕蝗蟲。
是時粟鬥錢三百,
蝗蟲之價與粟同。
捕蝗捕蝗竟何利,
徒使饑人重勞費。
一蟲雖死百蟲來,
豈將人力競天災。
我聞古之良吏有善政,
以政驅蝗蝗出境。
又聞貞觀之初道欲昌,
文皇仰天吞一蝗。
一人有慶兆民賴,
是歲雖蝗不為害。
Bội hoàng
Bộ hoàng, bộ hoàng, thuỳ gia tử,
Thiên nhiệt, nhật trường, cơ dục tử.
Hưng nguyên binh cửu thương âm dương,
Hoà khí cổ đố hoá vi hoàng.
Thuỷ tự Lưỡng Hà cập Tam phụ,
Trãi thực như tàm phi tự vũ.
Vũ phi tàm thực thiên lý gian,
Bất kiến thanh miêu không xích thổ.
Hà nam trường lại ngôn ưu nông,
Khoá nhân trú dạ bộ hoàng trùng.
Thị thì túc đấu tiền tam bách,
Hoàng trùng chi giá dữ túc đồng.
Bộ hoàng bộ hoàng cánh hà lợi,
Đồ sứ cơ nhân trùng lao phí.
Nhất trùng tuy tử bách trùng lai,
Khởi tương nhân lực cạnh thiên tai.
Ngã văn cổ chi lương lại hữu thiện chính,
Dĩ chính khu hoàng hoàng xuất cảnh.
Hựu văn Trinh Quán chi sơ đạo dục xương,
Văn hoàng ngưỡng thiên thôn nhất hoàng.
Nhất nhân hữu khánh triệu dân lại,
Thị tuế tuy hoàng bất vi hại.
Ca vũ 歌舞 • Múa ca
秦中歲雲暮,
大雪滿皇州。
雪中退朝者,
朱紫盡公侯。
貴有風雲興,
富無饑寒憂。
所營唯第宅,
所務在追遊。
朱輪車馬客,
紅燭歌舞樓。
歡酣促密坐,
醉暖脫重裘。
秋官為主人,
廷尉居上頭。
日中為樂飲,
夜半不能休。
豈知閿鄉獄,
中有凍死囚。
Ca vũ
Tần Trung tuế vãn mộ,
Đại tuyết mãn Hoàng châu.
Tuyết trung thoái triều giả,
Chu tử tận công hầu.
Quý hữu phong tuyết hứng,
Phú vô cơ hàn ưu.
Sở doanh duy đệ trạch,
Sở vụ tại truy du.
Chu môn xa mã khách,
Hồng chúc ca vũ lâu.
Hoan hàm xúc mật toạ,
Túy noãn thoát trùng cừu.
Thu quan vi chủ nhân,
Đình uý cư thượng đầu.
Nhật trung vi lạc ẩm,
Dạ bán bất năng hưu.
Khởi tri Văn Hương ngục,
Trung hữu đống tử tù.
Dịch nghĩa
Đất Tần Trung năm hầu hết
Khắp Kinh đô mưa tuyết lớn
Trong đám tuyết, những người tan chầu về
Áo đỏ áo tía toàn là các vị công hầu
Đối với người sang, càng có gió tuyết càng có hứng
Đối với người giàu, họ có lo gì phải đói rét
Họ chỉ mưu toan xây dựng lâu đài
Chỉ chăm lo đua đòi giong chơi
(Thế rồi) nơi cửa son khách đến đầy ngựa xe
Ánh đuốc đỏ rực lầu ca múa
Vui đùa, say sưa ngồi sát bên nhau
Hơi men nực, cởi liền mấy lớp áo cừu
Cụ Thu quan làm chủ tọa
Quan Đình úy ngồi ghế trên
Cuộc vui bắt đầu từ giữa trưa
Đến tận nửa đêm vẫn chưa tan
Há biết rằng trong ngục Văn Hương
Có những người tù đang chết rét!
Cảm hạc 感鶴
鶴有不群者,
飛飛在野田。
饑不啄腐鼠,
渴不飲盜泉。
貞姿自耿介,
雜鳥何翩翾。
同遊不同志,
如此十餘年。
一興嗜慾念,
遂為矰繳牽。
委質小池內,
爭食群雞前。
不惟懷稻粱,
兼亦競腥羶。
不惟戀主人,
兼亦狎烏鳶。
物心不可知,
天性有時遷。
一飽尚如此,
況乘大夫軒。
Cảm hạc
Hạc hữu bất quần giả,
Phi phi tại dã điền.
Cơ bất trác hủ thử,
Khát bất ẩm đạo tuyền.
Trinh tư tự cảnh giới,
Tạp điểu hà phiên huyên.
Đồng du bất đồng chí,
Như thử thập dư niên.
Nhất hứng thị dục niệm,
Toại vị tăng chước khiên.
Uỷ chất tiểu trì nội,
Tranh thực quần kê tiền.
Bất duy hoài đạo lương,
Kiêm diệc cạnh tinh thiên.
Bất duy luyến chủ nhân,
Kiêm diệc hiệp ô diên.
Vật tâm bất khả tri,
Thiên tính hữu thời thiên.
Nhất bão thượng như thử,
Huống thừa đại phu hiên.
Cảm Hoá tự kiến Nguyên, Lưu đề danh
微之謫去千餘里,
太白無來十一年。
今日見名如見面,
塵埃壁上破窗前。
Cảm Hoá tự kiến Nguyên, Lưu đề danh
Vi Chi trích khứ thiên dư lý,
Thái Bạch vô lai thập nhất niên.
Kim nhật kiến danh như kiến diện,
Trần ai bích thượng phá song tiền.
Dịch nghĩa
Vi Chi đang bị lưu đày cách đây hơn ngàn dặm,
Thái Bạch đã mười một năm chưa lại thăm.
Hôm nay được thấy tên như thấy mặt,
Trên bức tường trước khung cửa sổ đổ nát phủ đầy bụi bậm.
Cảm kính 感鏡 • Cảm xúc khi soi gương
美人與我別,
留鏡在匣中。
自從花顏去,
秋水無芙蓉。
經年不開匣,
紅埃覆青銅。
今朝一拂拭,
自照憔悴容。
照罷重惆悵,
背有雙盤龍。
Cảm kính
Mỹ nhân dữ ngã biệt
Lưu kính tại hạp trung
Tự tòng hoa nhan khứ
Thu thuỷ vô phù dung
Kinh niên bất khai pháp
Hồng ai phú thanh đồng
Kim triêu nhất phất phức
Tự cố tiều tuỵ dung
Chiếu bãi trùng trù trướng
Bối hữu song bàn long
Dịch nghĩa
Người đẹp cách biệt ta
Để lại tấm gương soi trong hộp
Từ khi mặt hoa xa cách
Làn nước mùa thu không còn hoa sen nữa
Suốt năm không mở ra xem
Bụi hồng đã phủ mờ đồng xanh
Sáng nay mang ra lau chùi
Thấy mình hình dung tiều tuỵ
Xem xong lại càng ngậm ngùi
Sau gương có đôi rồng cuộn
Cấm trung 禁中 • Trong khi bị cấm
門嚴九重靜,
窗幽一室閑。
好是修心處,
何必在深山。
Cấm trung
Môn nghiêm cửu trùng tĩnh,
Song u nhất thất nhàn.
Hảo thị tu tâm xứ,
Hà tất tại thâm sơn.
Dịch nghĩa
Quan trên nghiêm khắc, triều đình giữ im lặng,
Một căn phòng trống vắng có cửa sổ che bớt ánh sáng.
Đúng là chỗ tốt để tu sửa tâm tính,
Đâu cần phải vào chốn non sâu.
Cần Chính lâu tây lão liễu 勤正樓西老柳
半朽臨風樹,
多情立馬人。
開元一株柳,
長慶二年春。
Cần Chính lâu tây lão liễu
Bán hủ lâm phong thụ,
Đa tình lập mã nhân.
Khai Nguyên nhất châu liễu,
Trường Khánh nhị niên xuân.
Dịch nghĩa
Đã mục một nửa, đứng chống chọi với gió,
Người đa tình cưỡi ngựa, ngừng lại xem.
Trồng cây liễu này năm Khai Nguyên thứ nhất,
Nay là mùa xuân năm Trường Khánh thứ hai.
Bạch Cư Dị là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Ông chủ trương đổi mới thơ ca, thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo được đông đảo bạn đọc mến mộ. Mời các bạn đón xem những bài viết tiếp theo của chúng tôi! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!