Với lối thơ bình dị mà những thi phẩm của Bạch Cư Dị luôn thu hút sự quan tâm và mến mộ của độc giả yêu thơ. Ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần trung ngâm, Tân nhạc phủ). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn đi sâu vào lòng bạn đọc. Hãy theo dõi bài viết này để cảm nhận những trang thơ của ông nhé!
Chân nương mộ 真娘墓
真娘墓,虎丘道。
不識真娘鏡中面,
唯見真娘墓頭草。
霜摧桃李風折蓮,
真娘死時猶少年。
脂膚荑手不牢固,
世間尤物難留連。
難留連,易銷歇。
塞北花,江南雪。
Chân nương mộ
Chân nương mộ, Hổ Khâu đạo.
Bất thức Chân nương kính trung diện,
Duy kiến Chân nương mộ đầu thảo.
Sương tồi đào lý phong chiết liên,
Chân nương tử thì do thiếu niên.
Chỉ phu di thủ bất lao cố,
Thế gian vưu vật nan lưu liên.
Nan lưu liên, dị tiêu yết.
Tái bắc hoa, Giang Nam tuyết.
Chiêu đông lân 招東鄰
小榼二升酒,
新簟六尺床。
能來夜話吥,
池畔欲秋涼。
Chiêu đông lân
Tiểu khạp nhị thăng tửu,
Tân điệm lục xích sàng.
Năng lai dạ thoại bất,
Trì bạn dục thu lương.
Dịch nghĩa
Lu nhỏ có khoảng hai thưng rượu,
Chiếu mới đã trải trên giường rộng sáu thước.
Mời ông lại chơi buổi tối được không ?
Ngồi bên bờ ao có tiết trời thu mát mẻ.
Chiêu Quân từ kỳ 2 昭君詞其二
漢使卻回憑寄語,
黃金何日贖蛾眉。
君王若問妾顏色,
莫道不如宮裡時。
Chiêu Quân từ kỳ 2
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ,
Hoàng kim hà nhật thục nga mi ?
Quân vương nhược vấn thiếp nhan sắc,
Mạc đạo bất như cung lý thì!
Chu trung dạ vũ 舟中夜雨
江雲暗悠悠,
江風冷修修。
夜雨滴船背,
夜浪打船頭。
船中有病客,
左降向江州。
Chu trung dạ vũ
Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu!
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu.
Dịch nghĩa
Mây trên sông đen nghìn nghịt
Gió trên sông lạnh ngăn ngắt
Mưa đêm nhỏ giọt trên mui thuyền
Sóng đêm đánh vào đầu thuyền
Trong thuyền có người khách đang ốm
Bị giáng chức đổi đi Giang Châu
Chu trung độc Nguyên Cửu thi 舟中讀元九詩
把君詩卷燈前讀,
詩盡燈殘天未明。
眼痛滅燈揂闇坐,
逆風吹浪打船聲。
Chu trung độc Nguyên Cửu thi
Bả quân thi quyển đăng tiền độc,
Thi tận đăng tàn thiên vị minh.
Nhãn thống diệt đăng do ám toạ,
Sóc phong xuy lãng đả thuyền thanh.
Dịch nghĩa
Lấy quyển thơ của ông để trước đèn đọc
Đọc hết thơ, đèn lụn bấc, mà trời chưa sáng
Mắt mỏi, tắt đèn ngồi trong bóng tối [để nhớ tới ông]
Gió bấc thổi sóng vỗ vào mạn thuyền tiếng nghe lao xao
Chủng lệ chi 種荔枝 • Trồng vải
紅顆珍珠誠可愛,
白鬚太守亦何癡。
十年結子知誰在,
自向庭中種荔枝。
Chủng lệ chi
Hồng khoả trân châu thành khả ái,
Bạch tu thái thú diệc hà si.
Thập niên kết tử tri thuỳ tại,
Tự hướng đình trung chủng lệ chi.
Cửu bất kiến hàn thị lang, hí đề tứ vận dĩ ký chi
近來韓閣老,
疏我我心知。
戶大嫌甜酒,
才高笑小詩。
靜吟乖月夜,
閑醉曠花時。
還有愁同處,
春風滿鬢絲。
Cửu bất kiến hàn thị lang, hí đề tứ vận dĩ ký chi
Cận lai Hàn các lão,
Sơ ngã ngã tâm tri.
Hộ đại hiềm điềm tửu,
Tài cao tiếu tiểu thi.
Tĩnh ngâm quai nguyệt dạ,
Nhàn tuý khoáng hoa thì.
Hoàn hữu sầu đồng xứ,
Xuân phong mãn mấn ty.
Cửu niên thập nhất nguyệt nhị thập nhất nhật cảm sự nhi tác
禍福茫茫不可期,
大都早退似先知。
當君白首同歸日,
是我青山獨往時。
顧索素琴應不暇,
憶牽黃犬定難追。
麒麟作脯龍為醢,
何似泥中曳尾龜。
Cửu niên thập nhất nguyệt nhị thập nhất nhật cảm sự nhi tác (Kỳ nhật độc du Hương Sơn tự)
Hoạ phúc mang mang bất khả kỳ,
Đại đô tảo thoái tự tiên tri.
Đương quân bạch thủ đồng quy nhật,
Thị ngã thanh sơn độc vãng thì.
Cố sách tố cầm ưng bất hạ,
Ức khiên hoàng khuyển định nan truy.
Kỳ lân tác phụ long vi hải,
Hà tự nê trung duệ vĩ quy.
Dạ tranh 夜箏 • Đàn tranh trong đêm
紫袖紅弦明月中,
自彈自感闇低容。
弦凝指咽聲停處,
別有深情一萬重。
Dạ tranh
Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung,
Tự đàn tự cảm ám đê dung.
Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ,
Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng.
Dạ tuyết 夜雪 • Tuyết đêm
已訝衾枕冷,
復見窗戶明。
夜深知雪重,
時聞折竹聲。
Dạ tuyết
Dĩ nhạ khâm chẩm lãnh,
Phục kiến song hộ minh.
Dạ thâm tri tuyết trọng,
Thì văn chiết trúc thanh.
Dịch nghĩa
Đã lấy làm lạ là thấy chăn gối lạnh hơn,
Lại thấy cửa sổ và cửa ra vào sáng lên.
Đêm khuya thấy tuyết rơi nặng,
Có lúc nghe tiếng cành trúc gãy.
Dạ vũ 夜雨 • Mưa đêm
早蛩啼複歇,
殘燈滅又明。
隔窗知夜雨,
芭蕉先有聲。
Dạ vũ
Tảo cung đề phục yết,
Tàn đăng diệt hựu minh.
Cách song tri dạ vũ,
Ba tiêu tiên hữu thanh.
Dịch nghĩa
Con dế mèn buổi sớm hết kêu rồi lại ngừng
Ngọn đèn tàn lụi lại sáng
Cách cửa sổ biết đêm có mưa
Vì vừa mới nghe tiếng lộp độp trên tàu lá chuối.
Di Ái tự 遺愛寺 • Chùa Di Ái
弄石臨溪坐,
尋花繞寺行。
時時聞鳥語,
處處是泉聲。
Di Ái tự
Lộng thạch lâm khê toạ,
Tầm hoa nhiễu tự hành.
Thì thì văn điểu ngữ,
Xứ xứ thị tuyền thanh.
Dịch nghĩa
Tay cầm chơi các viêc sỏi, ngồi nghỉ bên bờ suối,
Đi trên các đường mòn quanh chùa ngắm hoa.
Lúc nào cũng nghe tiếng chim hót,
Chỗ nào cũng có tiếng suối chảy.
Dĩ kính tặng biệt 以鏡贈別
人言似明月,
我道勝明月。
明月非不明,
一年十二缺。
豈如玉匣裡,
如水常澄澈。
月破天闇時,
圓明獨不歇。
我慚貌醜老,
繞鬢班班雪。
不如贈少年,
迴照青絲髮。
因君千里去,
持此將為別。
Dĩ kính tặng biệt
Nhân ngôn tự minh nguyệt,
Ngã đạo thắng minh nguyệt.
Minh nguyệt phi bất minh,
Nhất niên thập nhị khuyết.
Khởi như ngọc hạp lý,
Như thủy thường trừng triệt,
Nguyệt phá thiên ám thời,
Viên minh độc bất yết.
Ngã tâm mạo xú lão,
Nhiễu mấn ban ban tuyết,
Bất như tặng thiếu niên,
Hồi chiếu thanh ty phát,
Nhân quân thiên lý khứ,
Trì thử tương vi biệt.
Diêm thương phụ 鹽商婦
鹽商婦,多金帛,
不事田農與蠶績。
南北東西不失家,
風水為鄉船作宅。
本是揚州小家女,
嫁得西江大商客。
綠鬟富去金釵多,
皓腕肥來銀釧窄。
前呼蒼頭後叱婢,
問爾因何得如此。
婿作鹽商十五年,
不屬州縣屬天子。
每年鹽利入官時,
少入宮家多入私。
官家利薄私家厚,
鹽鐵尚書遠不知。
何況江頭魚米賤,
紅鱠黃橙香稻飯。
飽食濃妝倚柂樓,
兩朵紅腮花欲綻。
鹽商婦,有幸嫁鹽商。
終朝美飯食,
終歲好衣裳。
好衣美食有來處,
亦須慚愧桑弘羊。
桑弘羊,死已久,
不獨漢時今亦有。
Diêm thương phụ
Diêm thương phụ, đa kim bạch,
Bất sự điền nông dữ tàm tích.
Nam bắc đông tây bất thất gia,
Phong thuỷ vi hương thuyền tác trạch.
Bản thị dương châu tiểu gia nữ,
Giá đắc tây giang đại thương khách.
Lục hoàn phú khứ kim thoa đa,
Hạo oản phì lai ngân xuyến trách.
Tiền hô thương đầu hậu sất tỳ,
Vấn nhĩ nhân hà đắc như thử.
Tế tác diêm thương thập ngũ niên,
Bất thuộc châu huyện thuộc thiên tử.
Mỗi niên diêm lợi nhập quan thì,
Thiểu nhập cung gia đa nhập tư.
Quan gia lợi bạc tư gia hậu,
Diêm thiết thượng thư viễn bất tri.
Hà huống giang đầu ngư mễ tiện,
Hồng khoái hoàng tranh hương đạo phạn.
Bão thực nùng trang ỷ đà lâu,
Lưỡng đoá hồng tai hoa dục trán.
Diêm thương phụ, hữu hạnh giá diêm thương.
Chung triêu mỹ phạn thực,
Chung tuế hảo y thường.
Hảo y mỹ thực hữu lai xứ,
Diệc tu tàm quý Tang Hoằng Dương.
Tang Hoằng Dương, tử dĩ cửu,
Bất độc hán thì kim diệc hữu.
Du tiểu Động Đình 遊小洞庭
湖山上頭別有湖,
芰荷香氣占仙都。
夜含星斗分乾象,
曉映雷雲作畫圖。
風動綠蘋天上浪,
鳥棲寒照月中烏。
若非神物多靈跡,
爭得長年冬不枯。
Du tiểu Động Đình
Hồ thượng sơn đầu biệt hữu hồ,
Kỵ hà hương khí chiếm tiên đô.
Dạ hàm tinh đẩu phân càn tượng,
Hiểu ánh vân lôi tác hoạ đồ.
Phong động lục tần thiên thượng lãng,
Điểu thê hàn chiếu nguyệt trung ô.
Nhược phi linh vật đa linh tích,
Tranh đắc trường niên đông bất khô.
Dịch nghĩa
Đầu núi trên hồ lại có riêng một hồ
Mùi thơm sen ấu ngào ngạt cõi tiên
Đêm đầy sao phân chia các vùng trời
Sáng sớm, mây chớp vẽ nên bức tranh
Gió xao động cõi tần biếc như sóng trên trời
Chim đậu trong ánh sáng lạnh như quạ trong trăng
Nếu không có vật thiêng, sao nhiều vết thiêng ?
Suốt năm dài đến mùa đông cũng không khô cạn.
Du Triệu thôn hạnh hoa 遊趙村杏花
趙村紅杏每年開,
十五年來看幾回。
七十三人難再到,
今春來是別花來。
Du Triệu thôn hạnh hoa
Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai,
Thập ngũ niên lai khán kỷ hồi.
Thất thập tam nhân nan tái đáo,
Kim xuân lai thị biệt hoa lai.
Dịch nghĩa
Hoa hồng hạnh xóm Triệu năm nào cũng nở,
Trong mười lăm năm, đã ngắm bao lần.
Đã bảy mươi ba tuổi, khó có thể trở lại đây,
Năm nay đến đây là để từ biệt hoa mà đến.
Du Vân Cư tự tặng Mục tam thập lục địa chủ
亂峰深處雲居路,
共踏花行獨惜春。
勝地本來無定主,
大都山屬愛山人。
Du Vân Cư tự tặng Mục tam thập lục địa chủ
Loạn phong thâm xứ vân cư lộ,
Cộng đạp hoa hành độc tích xuân.
Thắng địa bản lai vô định chủ,
Đại đô sơn thuộc ái sơn nhân.
Dịch nghĩa
Nhiều núi cao nơi sâu thẳm, mây quấn quýt trên đường
Hoa trên đường cứ luyến tiếc mùa xuân
Xưa nay cảnh đẹp thường vô chủ
Phần lớn người vùng núi mới yêu vùng sơn cước
Dục dữ nguyên bát bốc lân, tiên hữu thị tặng
平生心跡最相親,
欲隱牆東不為身。
明月好同三徑夜,
綠楊宜作兩家春。
每因暫出猶思伴,
豈得安居不擇鄰。
何獨終身數相見,
子孫長作隔牆人。
Dục dữ nguyên bát bốc lân, tiên hữu thị tặng
Bình sinh tâm tích tối tương thân,
Dục ẩn tường đông bất vị thân.
Minh nguyệt hảo đồng tam kính dạ,
Lục dương nghi tác lưỡng gia xuân.
Mỗi nhân tạm xuất do tư bạn,
Khởi đắc an cư bất trạch lân.
Hà độc chung thân sổ tương kiến,
Tử tôn trường tác cách tường nhân.
Dư Hàng hình thắng 餘杭形勝
餘杭形勝四方無,
州傍青山縣枕湖。
繞郭荷花三十裏,
拂城松樹一千株。
夢兒亭古傳名謝,
教妓樓新道姓蘇。
獨有使君年太老,
風光不稱白髭須。
Dư Hàng hình thắng
Dư Hàng hình thắng tứ phương vô,
Châu bạng thanh sơn huyện chẩm hồ.
Nhiễu quách hà hoa tam thập lý,
Phất thành tùng thụ nhất thiên châu.
Mộng nhi đình cổ truyền danh Tạ,
Giáo kỹ lâu tân đạo tính Tô.
Độc hữu sứ quân niên thái lão,
Phong quang bất xứng bạch tỳ tu.
Những bài thơ của Bạch Cư Dị luôn được độc giả đánh giá cao bởi phong cách trữ tình giàu cảm xúc sâu sắc. Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Mời các bạn đón xem phần 3 với những trang thơ hấp dẫn hơn nhé!