Bạch Cư Dị là một nhà thơ nổi tiếng cùng những trang thơ đồ sộ được đông đảo quý độc giả săn đón và mến mộ. Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái. Nếu các bạn yêu thích nhà thơ tài hoa này thì đừng quên cảm nhận những tuyệt phẩm vang danh để đời của ông nha!

Dữ Mộng Đắc cố tửu nhàn ẩm, thả ước hậu kỳ

少時猶不懮生計,
考後誰能惜酒錢。
共把十千沽一斗,
相看七十欠三年。
閑征雅令窮經史,
醉聽清吟勝管弦。
更待菊黃家釀熟,
共君一醉一陶然。

Dữ Mộng Đắc cố tửu nhàn ẩm, thả ước hậu kỳ

Thiếu thì do bất ưu sinh kế,
Khảo hậu thuỳ năng tích tửu tiền.
Cộng bả thập thiên cô nhất đấu,
Tương khan thất thập khiếm tam niên.
Nhàn chinh nhã lệnh cùng kinh sử,
Tuý thính thanh ngâm thắng quản huyền.
Cánh đãi cúc hoàng gia nhưỡng thục,
Cộng quân nhất tuý nhất đào nhiên.

Dịch nghĩa

Lúc tuổi trẻ đã không màng sinh kế,
Nay về già ai còn tiếc tiền rượu ?
Chung nhau mua loại rượu mười ngàn quan một đấu,
Nhìn nhau mới thấy thiếu ba năm cùng tròn bảy mươi tuổi.
Rượu vào, lời hay ý đẹp thoát ra bằng thơ,
Nghe giọng ngâm thanh tao còn thích hơn nghe đàn sáo.
Đợi rượu cúc nhà tôi ủ chín,
Mời ông tới đánh chén một bữa thật no say.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 1 楊柳枝八首其一

六麼水調家家唱,
白雪梅花處處吹。
古歌舊曲君休聽,
聽取新翻楊柳枝。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 1

“Lục ma”, “Thuỷ điệu” gia gia xướng,
“Bạch tuyết”, “Mai hoa” xứ xứ ca.
Cổ ca cựu khúc quân hưu thính,
Thính thủ tân phiên “Dương liễu chi”.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 2 楊柳枝八首其二

陶令門前四五樹,
亞夫營裏百千條。
何似東都正二月,
黃金枝映洛陽橋。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 2

Đào lệnh môn tiền tứ ngũ thụ,
Á Phu doanh lý bách thiên điều.
Hà tự đông đô chính nhị nguyệt,
Hoàng kim chi ánh Lạc Dương kiều.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 3 楊柳枝八首其三

依依嫋嫋複青青,
勾引清風無限情。
白雪花繁空撲地,
綠絲條弱不勝鶯。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 3

Y y niểu niểu phúc thanh thanh,
Câu dẫn thanh phong vô hạn tình.
Bạch tuyết hoa phồn không phốc địa,
Lục ti điều nhược bất thăng oanh.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 4 楊柳枝八首其四

紅板江橋青酒旗,
館娃宮暖日斜時。
可憐雨歇東風定,
萬樹千條各自垂。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 4

Hồng bản giang kiều thanh tửu kỳ,
Quán Oa cung noãn nhật tà thì.
Khả liên vũ yết đông phong định,
Vạn thụ thiên điều các tự thuỳ.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 5 楊柳枝八首其五

蘇州楊柳任君誇,
更有錢塘勝館娃。
若解多情尋小小,
綠楊深處是蘇家。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 5

Tô Châu dương liễu nhậm quân khoa,
Cánh hữu Tiền Đường thắng Quán Oa.
Nhược giải đa tình tầm Tiểu Tiểu,
Lục dương thâm xứ thị Tô gia.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 6 楊柳枝八首其六

蘇家小女舊知名,
楊柳風前別有情。
剝條盤作銀環樣,
卷葉吹為玉笛聲。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 6

Tô gia tiểu nữ cựu tri danh,
Dương liễu phong tiền biệt hữu tình.
Bác điều bàn tác ngân hoàn dạng,
Quyển diệp xuy vi ngọc địch thanh.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 7 楊柳枝八首其七

葉含濃露如啼眼,
枝嫋輕風似舞腰。
小樹不禁攀折苦,
乞君留取兩三條。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 7

Diệp hàm nùng lộ như đề nhãn,
Chi niểu khinh phong tự vũ yêu.
Tiểu thụ bất câm phan chiết nhược,
Khất quân lưu thủ lưỡng tam điều.

Dương liễu chi bát thủ kỳ 8 楊柳枝八首其八

人言柳葉似愁眉,
更有愁腸似柳絲。
柳絲挽斷腸牽斷,
彼此應無續得期。

Dương liễu chi bát thủ kỳ 8

Nhân ngôn liễu diệp tự sầu mi,
Cánh hữu sầu trường tự liễu ti.
Liễu ti vãn đoạn trường khiên đoạn,
Bỉ thử ưng vô tục đắc kỳ.

Dương liễu chi nhị thủ kỳ 1 楊柳枝二首其一 

一樹春風千萬枝,
嫩於金色軟於絲。
永豐西角荒園裏,
盡日無人屬阿誰。

Dương liễu chi nhị thủ kỳ 1

Nhất thụ xuân phong thiên vạn chi,
Nộn ư kim sắc nhuyễn ư ty.
Vĩnh Phong tây giác hoang viên lý,
Tận nhật vô nhân thuộc a thuỳ.

Dịch nghĩa

Cây liễu nọ có cả vạn cành,
Gió xuân giúp phô hoa vàng mơn mởn, tơ mềm óng ả.
Nó lại đứng trong góc tây vườn Vĩnh Phong đang bỏ hoang phế,
Cả ngày chẳng được ai lại ngắm.

Dưỡng trúc ký 養竹記 • Trồng trúc

竹似賢,何哉?竹本固,固以樹德,君子見其本,則思善建不拔者。竹性直,直以立身;君子見其性,則思中立不倚者。竹心空,空以體道;君子見其心,則思應用虛受者。竹節貞,貞以立志;君子見其節,則思砥礪名行,夷險一致者。夫如是,故君子人多樹之為庭實焉。
貞元十九年春,居易以拔萃選及第,授校書郎,始於長安求假居處,得常樂里故關相國私第之東亭而處之。明日,履及于亭之東南隅,見叢竹於斯,枝葉殄瘁,無聲無色。詢于關氏之老,則曰:『此相國之手植者。自相國捐館,他人假居,由是筐篚者斬焉,篲帚者刈焉,刑餘之材,長無尋焉,數無百焉。又有凡草木雜生其中,菶茸薈郁,有無竹之心焉。』居易惜其嘗經長者之手,而見賤俗人之目,剪棄若是,本性猶存。乃芟翳薈,除糞壤,疏其間,封其下,不終日而畢。于是日出有清陰,風來有清聲。依依然,欣欣然,若有情於感遇也。
嗟乎!竹,植物也,於人何有哉?以其有似于賢而人愛惜之,封植之,況其真賢者乎?然則竹之於草木,猶賢之於眾庶。嗚呼!竹不能自異,唯人異之。賢不能自異,唯用賢者異之。故作《養竹記》,書于亭之壁,以貽其後之居斯者,亦欲以聞於今之用賢者雲。

Dưỡng trúc ký

Trúc tự hiền, hà tai? Trúc bản cố, cố dĩ thụ đức, quân tử kiến kỳ bản, tắc tư thiện kiến bất bạt giả. Trúc tính trực, trực dĩ lập thân, quân tử kiến kỳ tính, tắc tư trung lập bất ỷ giả. Trúc tâm không, không dĩ thể đạo, quân tử kiến kỳ tâm, tắc tư ứng dụng hư thụ giả. Trúc tiết trinh, trinh dĩ lập chí, quân tử kiến kỳ tiết, tắc tư để lệ danh hạnh, di hiểm nhất trí giả. Phù như thị, cố quân tử nhân đa thụ chi vi đình thực yên.

Trinh Nguyên thập cửu niên xuân, Cư Dị dĩ bạt tuỵ tuyển cập đệ, thụ hiệu thư lang, thuỷ ư Trường An cầu giả cư xứ, đắc Thường Lạc lý cố Quan tướng quốc tư đệ chi Đông Đình xử chi. Minh nhật, lý cập vu đình chi đông nam ngung, kiến tùng trúc ư tư, chi diệp điễn tuỵ, vô thanh vô sắc.

Tuần vu Quan thị chi lão, tắc viết: “Thử tướng quốc chi thủ thực dã. Tự tướng quốc quyên quán, tha nhân giả cư, do thị khuông phỉ giả trảm yên, tuệ trửu giả ngải yên, hình dư chi tài, trưởng vô tầm yên, sổ vô bách yên. Hựu hữu phàm thảo mộc t ạp sinh k ỳ trung, bổng nhung hội úc, hữu vô trúc chi tâm yên.” Cư Dị tích kỳ thường kinh trưởng giả chi thủ, nhi kiến tiện tục nhân chi mục, tiễn khí nhược thị, bản tính do tồn.

Nãi sam ế hội, trừ phẩn nhưỡng, sơ kỳ gian, phong kỳ hạ, bất chung nhật nhi tất. Vu thị nhật xuất hữu thanh âm, phong lai hữu thanh thanh. Y y nhiên, hân hân nhiên, nhược hữu tình ư cảm ngộ dã.

Ta hồ! Trúc, thực vật dã, ư nhân hà hữu tai? Dĩ kỳ hữu tự vu hiền nhi nhân ái tích chi, phong thực chi, huống kỳ chân hiền giả hồ? Nhiên tắc trúc chi ư thảo mộc, do hiền chi ư chúng thứ. Ô hô! Trúc bất năng tự dị, duy nhân dị chi. Hiền bất năng tự dị, duy dụng hiền giả dị chi. Cố tác “Dưỡng trúc ký” thư vu đình chi bích, dĩ di kỳ hậu chi cư tư giả, diệc dục dĩ văn ư kim chi dụng hiền giả vân.

Đại Lâm tự đào hoa 大林寺桃花

人間四月芳菲盡,
山寺桃花始盛開。
長恨春歸無覓處,
不知轉入此中來。

Đại Lâm tự đào hoa

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,
Sơn tự đào hoa thuỷ thịnh khai.
Trường hận xuân quy vô mịch xứ,
Bất tri chuyển nhập thử trung lai.

Dịch nghĩa

Trong cõi nhân gian, tháng tư hương thơm đã tan hết
Nhưng hoa đào ở ngôi chùa trên núi mới bắt đầu nở rộ
Ta cứ giận mùa xuân bỏ đi không để lại tung tích
Mà không biết rằng (mùa xuân) chỉ chuyển về đây thôi.

Đại lân tẩu ngôn hoài 代鄰叟言懷

人生何事心無定,
宿昔如今意不同。
宿昔愁身不得老,
如今恨作白頭翁。

Đại lân tẩu ngôn hoài

Nhân sinh hà sự tâm vô định,
Túc tích như kim ý bất đồng.
Túc tích sầu thân bất đắc lão,
Như kim hận tác bạch đầu ông!

Dịch nghĩa

Người ta ở đời, tại sao tâm trí không nhất định?
Ngày trước với bây giờ ý nghĩ khác nhau
Ngày trước thì buồn mình không được lên cụ
Bây giờ lại bực mình phải làm ông lão bạc đầu!

Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代賣薪女贈諸妓

亂蓬為鬢布為巾,
曉踏寒山自負薪。
一種錢塘江畔女。
著紅騎馬是何人?

Đại mại tân nữ tặng chư kỹ

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,
Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân.
Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ,
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?

Dịch nghĩa

Tóc như cỏ bồng rối bù, khăn bằng vải thô
Sáng sớm dẫm chân trên núi Hàn gánh củi
Một loại gái ở bên bờ sông Tiền Đường
Mặc áo đỏ cưỡi ngựa, ấy là loại người gì?

Đáp Vi Chi 答微之

君寫我詩盈寺壁,
我題君句滿屏風。
與君相遇知何處,
兩葉浮萍大海中。

Đáp Vi Chi

Quân tả ngã thi doanh tự bích,
Ngã đề quân cú mãn bình phong.
Dữ quân tương ngộ tri hà xứ,
Lưỡng diệp phù bình đại hải trung.

Đề Lệnh Hồ gia mộc lan hoa 題令狐家木蘭花

膩如玉指塗朱粉,
光似金刀剪紫霞。
從此時時春夢裏,
應添一樹女郎花。

Đề Lệnh Hồ gia mộc lan hoa

Nhị như ngọc chỉ đồ chu phấn,
Quang tự kim đao tiễn tử hà.
Tòng thử thì thì xuân mộng lý,
Ưng thiêm nhất thụ nữ lang hoa.

Dịch nghĩa

Nhuỵ như ngón tay ngọc bôi phấn đỏ,
Dáng sáng như dao vàng cắt đứt ráng tía.
Từ lúc được xem hoa, thường nằm mộng,
Mong có thêm cây hoa mang tên nữ tướng.

Đỗ Lăng tẩu 杜陵叟 • Ông già Đỗ Lăng

杜陵叟,杜陵居,
歲種薄田一頃餘。
三月無雨旱風起,
麥苗不秀多黃死。
九月降霜秋早寒,
禾穗未熟皆青乾。
長吏明知不申破,
急斂暴徵求考課。
典桑賣地納官租,
明年衣食將何如。
剝我身上帛,
奪我口中粟。
虐人害物即豺狼,
何必鉤爪鋸牙食人肉。
不知何人奏皇帝,
帝心惻隱知人弊。
白麻紙上書德音,
京畿盡放今年稅。
昨日里胥方到門,
手持尺牒牓鄉村。
十家租稅九家畢,
虛受吾君蠲免恩。

Đỗ Lăng tẩu

Đỗ Lăng tẩu, Đỗ Lăng cư,
Tuế chủng bạc điền nhất khoảnh dư.
Tam nguyệt vô vũ hạn phong khởi,
Mạch miêu bất tú đa hoàng tử.
Cửu nguyệt giáng sương thu tảo hàn,
Hoà tuệ vị thục giai thanh can.
Trưởng lại minh tri bất thân phá,
Cấp liễm bạo trung cầu khảo khoá.
Điển tang mại địa nạp quán tô,
Minh niên y thực tương hà như?
Bác ngã thân thượng bạch,
Đoạt ngã khẩu trung túc
Ngược nhân hại vật tức sài làng,
Hà tất câu trảo cứ nha thực nhân nhục?
Bất tri hà nhân tấu hoàng đế,
Đế tâm trắc ẩn tri nhân tệ.
Bạch ma chỉ thượng thư đức âm:
Kinh kì tận phóng kim niên thuế.
Tạc nhật lí tư phương đáo môn,
Thủ trì sắc điệp bảng hương thôn.
Thập gia tô thuế cửu gia tất,
Hư thụ ngô hoàng quyên miễn ân.

Dịch nghĩa

Ông lão hiệu Đỗ Lăng sinh sống ở Đỗ Lăng,
Hằng năm trồng lúa trong một khoảnh ruộng cằn cỗi.
Năm nay tháng ba không mưa, gió lại nổi sớm,
Lúa mạch không ra bông chết vàng khô.
Đến tháng chín sương xuống nhiều, lại thêm mùa thu lạnh sớm,
Lúa mùa đều cứ xanh hoài không chín.
Trưởng quan biết rõ như thế, nhưng không trình lên trên,
Cứ thúc thâu nạp thuế gấp rút và tàn bạo cho ong phận sự.
Cầm cố vườn dâu, bán bớt đất ruộng để đóng thuế,
Ngày mai cơm ăn áo mặc biết ra sao?
Lột áo tôi đang mặc;
Móc cơm trong miệng tôi đang ăn,
Các ông tàn nhẫn với người và vật đã là lang sói rồi,
Đâu cần phải cắn xé ăn thịt người như chúng.
Không biết ai đã tâu lên vua,
Vua động lòng trắc ẩn dân tình đói kém:
Trên giấy làm bằng bột gai trắng viết rõ ân đức,
Năm nay miễn thuế cho vùng phụ cận kinh đô.
Hôm qua lính làng vừa đến trước cửa,
Tay cầm sắc điệp treo khắp thôn xóm.
Tiếc thay mười nhà thì tám chín nhà đã đóng thuế xong,
Chỉ nhận được ơn suông từ ông vua của tôi.

Đồ Sơn tự độc du 涂山寺獨遊

野徑行無伴,
僧房宿有期。
涂山來往熟,
惟是馬蹄知。

Đồ Sơn tự độc du

Dã kính hành vô bạn,
Tăng phòng túc hữu kỳ.
Đồ sơn lai vãng thục,
Duy thị mã đề tri.

Dịch nghĩa

Đường quê đi không bạn,
Qua đêm ở phòng tăng phải xin hẹn trước.
Đi đi về về chùa Đồ Sơn đã quen thuộc,
Đúng ra là con ngựa đã quen chân.

Độc Lão Tử 讀老子

言者不知知者默,
此語吾聞於老君。
若道老君是知者,
緣何自著五千文?

Độc Lão Tử

Ngôn giả bất tri, tri giả mặc,
Thử ngữ ngô văn ư Lão quân.
Nhược đạo Lão quân thị tri giả,
Duyên hà tự trước ngũ thiên văn?

Dịch nghĩa

Người nói ra thì không biết, mà người biết thì im lặng,
Lời đó ta nghe được từ Lão quân.
Nếu bảo rằng Lão quân là người biết (đạo),
Thì vì sao tự viết ra áng văn năm nghìn chữ kia?

Độc Trang Tử 讀莊子

莊生齊物同歸一,
我道同中有不同。
遂性逍遙雖一致,
鸞鳳終校勝蛇蟲。

Độc Trang Tử

Trang Sinh tề vật đồng quy nhất,
Ngã đạo đồng trung hữu bất đồng.
Toại tính tiêu dao tuy nhất trí,
Loan phụng chung giao thắng xà trùng.

Dịch nghĩa

Trang Sinh cho rằng mọi vật đều trở về cùng một thể,
Tôi cho rằng trong cái đồng nhất thể có cái không đồng.
Tôi đồng ý lối sống tiêu dao,
Nhưng xét cho cùng thì loan phượng vẫn cao xa hơn rắn rết

Đối tửu kỳ 4 對酒其四 • Trước rượu kỳ 4

百歲無多時壯健,
一春能幾日晴明。
相逢且莫推辭醉,
聽唱陽關笫四聲。

Đối tửu kỳ 4

Bách tuế vô đa thì tráng kiện,
Nhất xuân năng kỷ nhật tình minh.
Tương phùng thả mạc thôi từ tuý,
Thính xướng “Dương quan đệ tứ thanh”.

Dịch nghĩa

Đời người không mấy lúc thân thể tráng kiện,
Một mùa xuân cũng phải giữ cho được vài ngày tỉnh táo.
Gặp nhau đây không thể không say,
Vì đã nghe câu “Dương quan đệ tứ thanh”.

Trên đây, chúng tôi đã dành tặng quý độc giả những trang thơ vang danh của nhà thơ Bạch Cư Dị. Ông là một nhà thơ lớn và vang danh của Trung Quốc, sở hữu một kho tàng thơ đồ sộ và hấp dẫn được người đời ca tụng. Ông đã khẳng định được vị thế của mình trong lòng những độc giả yêu thơ. 

Tagged: