Bạch Cư Dị là một nhà thơ hiện thực hiếm có ở thời kì Trung Đường. Đồng thời trong những thi phẩm của ông lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo, công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc Qua ngòi bút của ông đã bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại lộng quyền. Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn và hòa mình cùng nỗi lòng nhân dân để sáng tác thơ. Hãy cùng nhau đón xem những trang thơ hào hùng và đầy cảm xúc này nhé!

Đông chí túc Dương Mai quán 冬至宿楊梅館

十一月中長至夜,
三千裏外遠行人。
若為獨宿楊梅館,
冷枕單床一病身。

Đông chí túc Dương Mai quán

Thập nhất nguyệt trung trường chí dạ,
Tam thiên lý ngoại viễn hành nhân
Nhược vi độc túc Dương Mai quán,
Lãnh chẩm đan sàng nhất bệnh thân.

Đông dạ văn trùng 冬夜聞蟲

蟲聲冬思苦於秋,
不解愁人聞亦愁。
我是老翁聽不畏,
少年莫聽白君頭。

Đông dạ văn trùng

Trùng thanh đông tứ khổ ư thu,
Bất giải sầu nhân văn diệc sầu.
Ngã thị lão nhân thinh bất uý,
Thiếu niên mạc thính bạch quân đầu.

Dịch nghĩa

Tiếng dế đêm đông ý tứ não nùng hơn mùa thu
Kẻ không biết buồn nghe cũng phải buồn
Ta đã già rồi,nghe chẳng sợ gì
Tuổi trẻ đừng nghe vì nghe thì sẽ bạc đầu.

Đông đình nhàn vọng 東亭閑望

東亭盡日坐,
誰伴寂寥人?
綠桂為佳客,
紅蕉當美人。
笑言雖不接,
情狀似相親。
不作悠悠想,
如何度晚春?

Đông đình nhàn vọng

Đông đình tận nhật toạ,
Thuỳ bạn tịch liêu nhân?
Lục quế vi giai khách,
Hồng tiêu đương mỹ nhân.
Tiếu ngôn tuy bất tiếp,
Tình trạng tự tương thân.
Bất tác du du tưởng,
Như hà độ vãn xuân?

Dịch nghĩa

Cả ngày ngồi ở đình phía đông,
Ai sẽ là bạn cho kẻ nhàn nhã này ?
Cây quế xanh có thể là vị khách quý,
Cây chuối hồng đáng mặt người đẹp.
Tuy không trực tiếp nói cười nói được,
Nhưng tình trạng như thật thân thiết.
Nếu không tưởng tượng rộng rãi như vậy,
Làm sao ta có thể qua được những ngày xuân muộn này ?

Đồng Lý Thập Nhất tuý ức Nguyên Cửu 同李十一醉憶元九

花時同醉破春愁,
醉折花枝作酒籌。
忽憶故人天際去,
計程今日到梁州。

Đồng Lý Thập Nhất tuý ức Nguyên Cửu

Hoa thời đồng tuý phá xuân sầu,
Tuý triết hoa chi tác tửu trù.
Hốt ức cố nhân thiên tế khứ,
Kế trình kim nhật đáo Lương châu.

Dịch nghĩa

Ngày hoa (tức ngày xuân) cùng say để xua tan đi nỗi sầu,
Say bẻ một nhành hoa làm thẻ rượu.
Chợt nhớ tới bạn xưa đang bước bên trời,
Tính ngày tihf hôm nay đã phải đến Lương châu.

Giang lâu vãn thiếu cảnh vật tiên kỳ ngâm ngoạn thành thiên ký Thuỷ bộ Trương Tịch viên ngoại

澹煙疏雨間斜陽,
江色鮮明海氣涼。
蜃散雲收破樓閣,
虹殘水照斷橋樑。
風翻白浪花千片,
雁點青天字一行。
好著丹青圖畫取,
題詩寄與水曹郎。

Giang lâu vãn thiếu cảnh vật tiên kỳ ngâm ngoạn thành thiên ký Thuỷ bộ Trương Tịch viên ngoại

Đạm yên sơ vũ gián tà dương,
Giang sắc tiên minh hải khí lương.
Thẩn tán vân thu phá lâu các,
Hồng tàn thuỷ chiếu đoạn kiều lương.
Phong phiên bạch lãng hoa thiên phiến.
Nhạn điểm thanh thiên tự nhất hàng.
Hảo trước đan thanh đồ hoạ thủ,
Đề thi ký dữ Thuỷ tào lang.

Giang Nam tống bắc khách nhân bằng ký Từ Châu huynh đệ thư 

故園望斷欲何如,
楚水吳山萬里餘。
今日因君訪兄弟,
數行鄉淚一封書。

Giang Nam tống bắc khách nhân bằng ký Từ Châu huynh đệ thư
Cố viên vọng đoạn dục hà như?

Sở thuỷ Ngô sơn vạn lý dư.
Kim nhật nhân quân phỏng huynh đệ,
Sổ hàng hương lệ nhất phong thư.

Dịch nghĩa

Quê xưa xa khỏi tầm mắt, bây giờ phải làm thế nào?
Cách sông Sở, núi Ngô cả vạn dặm.
Hôm nay ông [lên bắc], cảm phiền ghé nhà anh em tôi,
Chuyển giùm bức thư này có vài dòng thấm lệ nhớ quê.

Giang thượng địch 江上笛 • Sáo trên sông

江上何人夜吹笛,
聲聲似憶故園春。
此時聞者堪頭白,
況是多愁少睡人。

Giang thượng địch

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,
Thanh thanh tự ức cố viên xuân,
Thử thời văn giả kham đầu bạch,
Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.

Giang thượng ngâm Nguyên bát tuyệt cú 江上吟元八絕句

大江深處月明時,
一夜吟君小律詩。
應有水仙潛出聽,
翻將唱作步虛詞。

Giang thượng ngâm Nguyên bát tuyệt cú

Đại giang thâm xứ nguyệt minh thì,
Nhất dạ ngâm quân tiểu luật thi.
Ưng hữu thuỷ tiên tiềm xuất thính,
Phiên tương xướng tác “Bộ hư từ”.

Dịch nghĩa

Trên sông lớn, vùng xa vắng, trăng sáng,
Tôi đã ngâm bài thơ luật nhỏ của ông.
Có lẽ tiên dưới nước cũng phải trồi lên để nghe,
Vì bài của ông mang âm hưởng của “Bộ hư từ”.

Hà Mãn Tử 何滿子 • Hà Mãn Tử

世傳滿子是人名,
臨就刑時曲始成。
一曲四詞歌八疊,
從頭便是斷腸聲。

Hà Mãn Tử

Thế truyền Mãn Tử thị nhân danh,
Lâm tựu hình thời khúc thuỷ thành.
Nhất khúc tứ từ ca bát điệp,
Tòng đầu tiện thị đoạn trường thanh.

Dịch nghĩa

Trên đời truyền Mãn Tử là tên của người,
Chính khi chịu hình (tử hình) thì khúc mới hoàn thành.
Một khúc có bốn lời, tám điệp khúc,
Ngay từ đầu lời ca (đến cuối) đã là những tiếng đứt ruột.

Hạ vũ 賀雨 • Mừng mưa

皇帝嗣寶歷,
元和三年冬。
自冬及春暮,
不雨旱爞爞。
上心念下民,
懼歲成災凶。
遂下罪己詔,
殷勤告萬邦。
帝曰予一人,
繼天承祖宗。
憂勤不遑寧,
夙夜心忡忡。
元年誅劉辟,
一舉靖巴邛。
二年戮李錡,
不戰安江東。
顧惟眇眇德,
遽有巍巍功。
或者天降沴,
無乃儆予躬?
上思答天戒,
下思致時邕。
莫如率其身,
慈和與儉恭。
乃命罷進獻,
乃命賑饑窮。
宥死降五刑,
已責寬三農。
宮女出宣徽,
廄馬減飛龍。
庶政靡不舉,
皆出自宸衷。
奔騰道路人,
傴僂田野翁。
歡呼相告報,
感泣涕沾胸。
順人人心悅,
先天天意從。
詔下才七日,
和氣生沖融。
凝為悠悠雲,
散作習習風。
晝夜三日雨,
凄凄復蒙蒙。
萬心春熙熙,
百谷青芃芃。
人變愁為喜,
歲易儉為丰。
乃知王者心,
憂樂與眾同。
皇天與后土,
所感無不通。
冠佩何鏘鏘,
將相及王公。
蹈舞呼萬歲,
列賀明庭中。
小臣誠愚陋,
職忝金鑾宮。
稽首再三拜,
一言獻天聰:
君以明為聖,
臣以直為忠;
敢賀有其始,
亦愿有其終。

Hạ vũ

Hoàng đế tự Bảo Lịch,
Nguyên Hoà tam niên đông.
Tự đông cập xuân mộ,
Bất vũ hạn trùng trùng.
Thướng tâm niệm hạ dân,
Cụ tuế thành tai hung.
Toại hạ tội kỷ chiếu,
Ân cần cáo vạn bang.
Đế viết dư nhất nhân,
Kế thiên thừa tổ tông.
Ưu cần bất hoàng ninh,
Túc dạ tâm sung sung.
Nguyên niên tru Lưu Tích,
Nhất cử tĩnh Ba Cùng.
Nhị niên lục Lý Kỳ,
Bất chiến an Giang Đông.
Cố duy miễu miễu đức,
Cự hữu nguy nguy công.
Hoặc giả thiên giáng lệ,
Vô nãi cảnh dư cung?
Thượng tư đáp thiên giới,
Hạ tư trí thì ung.
Mạc như suất kỳ thân,
Từ hoà dữ kiệm cung.
Nãi mệnh bãi tiến hiến,
Nãi mệnh chẩn cơ cùng.
Hựu tử giáng ngũ hình,
Dĩ trách khoan tam nông.
Cung nữ xuất Tuyên Huy,
Cứu mã giảm phi long.
Thứ chính mị bất cử,
Giai xuất tự thần trung.
Bôn đằng đạo lộ nhân,
Ủ lũ điền dã ông.
Hoan hô tương cáo báo,
Cảm khấp thế triêm hung.
Thuận nhân nhân tâm duyệt,
Tiên thiên thiên ý tòng.
Chiếu hạ tài thất nhật,
Hoà khí sinh xung dung.
Ngưng vị du du vân,
Tán tác tập tập phong.
Trú dạ tam nhật vũ,
Thê thê phục mông mông.
Vạn tâm xuân hy hy,
Bách cốc thanh ngải ngải.
Nhân biến sầu vi hỉ,
Tuế dịch kiệm vi phong.
Nãi tri vương giả tâm,
Ưu lạc dữ chúng đồng.
Hoàng thiên dữ hậu thổ,
Sở cảm vô bất thông.
Quan bội hà thương thương,
Tướng tướng cập vương công.
Đạo vũ hô vạn tuế,
Liệt hạ minh đình trung.
Tiểu thần thành ngu lậu,
Chức thiểm Kim Loan cung.
Khể thủ tái tam bái,
Nhất ngôn hiến thiên thông:
Quân dĩ minh vi thánh,
Thần dĩ trực vi trung;
Cảm hạ hữu kỳ thuỷ,
Diệc nguyện hữu kỳ chung.

Hải man man 海漫漫 • Biển mênh mông

海漫漫,
直下無底旁無邊。
雲濤煙浪最深處,
人傳中有三神山。
山上多生不死藥,
服之羽化為天仙。
秦皇漢武信此語,
方士年年采藥去。
蓬萊今古但聞名,
煙水茫茫無覓處。
海漫漫,風浩浩,
眼穿不見蓬萊島。
不見蓬萊不敢歸,
童男髫女舟中老。
徐福文成多誑誕,
上元太一虛祈禱。
君看驪山頂上茂陵頭,
畢竟悲風吹蔓草。
何況玄元聖祖五千言,
不言藥,不言仙,
不言白日升青天。

Hải man man

Hải mạn mạn,
Trực há vô để bàng vô biên.
Vân đào yên lãng tối thâm xứ,
Nhân truyền trung hữu tam thần sơn.
Sơn thượng đa sinh bất tử dược,
Phục chi vũ hoá vi thiên tiên.
Tần hoàng, Hán Vũ tín thử ngữ,
Phương sĩ niên niên thái dược khứ.
Bồng Lai kim cổ đãn văn danh,
Yên thuỷ mang mang vô mịch xứ.
Hải mạn mạn, phong hạo hạo,
Nhãn xuyên bất kiến Bồng Lai đảo.
Bất kiến Bồng Lai bất cảm quy,
Đồng nam thiều nữ chu trung lão.
Từ Phúc, Văn Thành đa cuống đản,
Thượng Nguyên, Thái Nhất hư kỳ đảo.
Quân khán Ly Sơn đỉnh thượng Mậu Lăng đầu,
Tất cánh bi phong xuy mạn thảo.
Hà huống Huyền nguyên Thánh Tổ ngũ thiên ngôn,
Bất ngôn dược, bất ngôn tiên,
Bất ngôn bạch nhật thăng thanh thiên.

Hàm Đan đông chí dạ tư gia 邯鄲冬至夜思家

邯鄲驛裡逢冬至,
抱膝燈前影伴身。
想得家中夜深坐,
還應說著遠行人。

Hàm Đan đông chí dạ tư gia

Hàm Đan dịch lý phùng đông chí
Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân
Tưởng đắc gia trung thâm dạ tọa
Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân

Dịch nghĩa

Trong nhà trạm ở Hàm Đan, gặp tiết đông chí
Ôm gối trước đèn, bóng làm bạn với thân
Tưởng đến cả nhà ngồi trong đêm khuya
Ai nấy đang bàn tán nhắc nhở người đi xa.

Hàn khuê oán 寒閨怨

寒月沉沉洞房靜,
真珠帘外梧桐影。
秋霜欲下手先知,
燈底裁縫剪刀冷。

Hàn khuê oán

Hàn nguyệt trầm trầm động phòng tĩnh,
Chân châu liêm ngoại ngô đồng ảnh.
Thu sương dục há thủ tiên tri,
Đăng để tài phùng tiễn đao lãnh.

Dịch nghĩa

Mặt trăng lạnh lặn từ từ, phòng the yên tĩnh,
Bên ngoài rèm ngọc là hình ảnh cây ngô đồng.
Sương thu muốn xuống, tay là cảm nhận trước,
Vì dao kéo đang dùng dưới ánh đèn rất lạnh.

Hàn thực dã vọng ngâm 寒食野望吟 

丘墟郭門外,
寒食誰家哭。
風吹曠野紙錢飛,
古墓累累春草綠。
棠梨花映白楊樹,
盡是死生離別處。
冥寞重泉哭不聞,
蕭蕭墓雨人歸去。

Hàn thực dã vọng ngâm

Khâu khư Quách môn ngoại,
Hàn thực thuỳ gia khốc.
Phong xuy khoáng dã chỉ tiền phi,
Cổ mộ luỹ luỹ xuân thảo lục.
Đường lê hoa ánh bạch dương thụ,
Tận thị tử sinh ly biệt xứ.
Minh mịch trùng tuyền khốc bất văn,
Tiêu tiêu mộ vũ nhân quy khứ.

Hàng Châu xuân vọng 杭州春望 

望海樓明照曙霞,
護江堤白蹋晴沙。
濤聲夜入伍員廟,
柳色春藏蘇小家。
紅袖織綾誇柿蒂,
青旗沽酒趁梨花。
誰開湖寺西南路,
草綠裙腰一道斜。

Hàng Châu xuân vọng

Vọng hải lâu minh chiếu thự hà,
Hộ giang đê bạch đạp tình sa.
Đào thanh dạ nhập Ngũ Viên miếu,
Liễu sắc xuân tàng Tô Tiểu gia.
Hồng tụ chức lăng khoa thị đế,
Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa.
Thùy khai hồ tự tây nam lộ,
Thảo lục quần yêu nhất đạo tà.

Hạnh Viên hoa hạ tặng Lưu lang trung

怪君把酒偏惆悵,
曾是貞元花下人。
自別花來多少事,
東風二十四回春。

Hạnh Viên hoa hạ tặng Lưu lang trung

Quái quân bả tửu thiên trù trướng,
Tằng thị Trinh Nguyên hoa hạ nhân.
Tự biệt hoa lai đa thiểu sự,
Đông phong nhị thập tứ hồi xuân.

Dịch nghĩa

Lạ thay ngồi bên bàn rượu mà ông thường buồn bã,
Đã từng ngồi dưới dàn hoa này năm Trinh Nguyên.
Từ đó xa nhau, biết bao sự việc đổi thay,
Hai mươi bốn xuân qua, nay lại bên nhau trong gió đông.

Hạo ca hành 浩歌行 • Hát vang

天長地久無終畢,
昨夜今朝又明日。
鬢髮蒼浪牙齒疏,
不覺身年四十七。
前去五十有幾年,
把鏡照面心茫然。
既無長繩系白日,
又無大藥駐朱顏。
朱顏日漸不如故,
青史功名在何處。
欲留年少待富貴,
富貴不來年少去。
去複去兮如長河,
東流赴海無回波。
賢愚貴賤同歸盡,
北邙塚墓高嵯峨。
古來如此非獨我,
未死有酒且高歌。
顏回短命伯夷餓,
我今所得亦已多。
功名富貴須待命,
命若不來知奈何。

Hạo ca hành

Thiên trường địa cửu vô chung tất,
Tạc dạ kim triều hựu minh nhật.
Mấn phát thương lãng nha xỉ sơ,
Bất giác thân niên tứ thập thất.
Tiền khứ ngũ thập hữu kỉ niên,
Bả kính chiếu diện tâm mang nhiên.
Kí vô trường thằng hệ bạch nhật,
Hựu vô đại dược trú chu nhan.
Chu nhan nhật tiệm bất như cố,
Thanh sử công danh tại hà xứ?
Dục lưu niên thiếu đãi phú quý,
Phú quý bất lai niên thiếu khứ.
Khứ phục khứ hề như trường hà,
Đông lưu phó hải vô hồi ba.
Hiền ngu quý tiện đồng quy tận,
Bắc Mang trủng mộ cao tha nga!
Cổ lai như thử phi độc ngã,
Vị tử hữu tửu thả cao ca.
Nhan Hồi đoản mạng Bá Di ngạ,
Ngã kim sở đắc diệc dĩ đa.
Công danh phú quý tu đãi mạng,
Mạng nhược bất lai tri nại hà?

Dịch nghĩa

Trời đất bao la vô cùng tận
Hôm trước, hôm sau, rồi lại mai…
Mái tóc đốm bạc, hàm răng lưa thưa,
Nào ngờ mình đã bốn mươi bảy tuổi,
Chỉ còn vài năm nữa là chẵn năm mươi!
Lấy gương soi mặt mà lòng dạ bàng hoàng.
Đã không có dây dài để buộc ông mặt trời
Cũng không có thuốc tiên để gìn giữ mặt son.
Mặt son trẻ mỗi ngày không được như xưa,
Sử xanh và công danh ở chốn nào?
Muốn giữ lại tuổi trẻ để đợi giàu sang,
Nhưng giàu sang không đến mà tuổi trẻ lại trôi đi mất.
Và cứ trôi cứ trôi… tựa như dòng nước chảy miên man,
Cuồn cuộn về đông mà không vỗ sóng trở lại.
Giỏi dở sang hèn gì cũng đều chết hết,
Kìa nấm mồ trên đỉnh Bắc Mang cao ngất!
Xưa nay chẳng phải riêng mình ta như vậy,
Chưa chết mà có rượu thì hãy vui hát.
Nhan Hồi vắn số, Bá Di chết đói,
Ta nay được thế này cũng đã quá lắm rồi.
Muốn công danh thì phải đợi số mệnh,
Nếu số mệnh không đến, thì tranh giành sao được?

Hắc đàm long 黑潭龍 • Con rồng đầm đen

黑潭水深色如墨,
傳有神龍人不識。
潭上架屋官立祠,
龍不能神人神之。
豐兇水旱與疾疫,
鄉里皆言龍所為。
家家養豚漉清酒,
朝祈暮賽依巫口。
神之來兮風飄飄,
紙錢動兮錦傘搖。
神之去兮風亦靜,
香火滅兮杯盤冷。
肉堆潭岸石,
酒潑廟前草。
不知龍神饗幾多,
林鼠山狐長醉飽。
狐何幸,豚何辜,
年年殺豚將喂狐。
狐假龍神食豚盡,
九重泉底龍知無?

Hắc đàm long

Hắc đàm thuỷ thâm, sắc như mặc,
Truyền hữu thần long nhân bất thức.
Đàm thượng giá ốc quan lập từ,
Long bất năng thần, nhân thần chi.
Tai hung thuỷ hạn dữ tật dịch,
Hương lý giai ngôn long sở vi.
Gia gia dưỡng đồn, lộc thanh tửu,
Triêu kỳ mộ trại y vu khẩu.
Thần chi lai hề, phong phiêu phiêu,
Chỉ tiền động hề, cẩm tản dao.
Thần chi khứ hề, phong diệc tĩnh,
Hương hoả diệt hề, bôi bàn lãnh.
Nhục đôi đàm ngạn thạch,
Tửu bát miếu tiền thảo.
Bất tri long thần hưởng kỷ đa,
Lâm thử sơn hồ trường tuý bão.
Hồ hà hạnh! Đồn hà cô!
Niên niên sát đồn tương ổi hồ.
Hồ giả long thần thực đồn tận,
Cửu trùng tuyền để long tri vô?

Dịch nghĩa

Đầm đen nước sâu, màu nước như mực
Đồn rằng có rồng thiêng, không ai trông thấy
Quan sai cất ngôi nhà trên đầm để làm đền thờ
Rồng không thiêng, nhưng người ta làm cho ra thiêng
Thiên tai, mất mùa, ngập lụt, hạn hán hay bệnh dịch
Dân làng đều bảo do rồng làm ra cả
Nhà nào cũng nuôi lợn, lọc rượu
Sớm lễ tối cầu theo lời của đồng cốt
Thần giáng chừ, gió hiu hiu
Tiền giấy bay chừ, tàn gấm rung rinh
Thần thăng chừ, gió im lặng
Đèn hương tắt chừ, cỗ bàn nguội lạnh
Thịt vứt đống trên phiến đá bên bờ đầm
Rượu hắt ướt cả đám cỏ trước miếu
Chẳng hay thần rồng hưởng bao nhiêu
Chuột rừng, cáo núi no say mãi!
Cáo sao may thế? Lợn tội tình gì?
Năm này qua năm khác giết lợn để khao cáo
Cáo mượn oai rồng ăn hết lợn
Dưới đáy đầm sâu chín tầng, rồng có biết hay không?

Bạch Cư Dị là một nhà thơ sở hữu một ngòi bút xuất sắc cùng tấm lòng yêu nước thương dân phê phán những quan lại tham ô. Qua những thi phẩm của ông, ta cảm nhận được sự tài hoa cùng những ý nghĩa sâu sắc đằng sau những trang thơ của ông. Mời các bạn đón xem phần 5 vào một ngày không xa nhé!

Tagged: