Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 . Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Ông chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Sở hữu một phong cách thơ nổi bật và luôn muốn cách tân thơ ca của mình. Những vần thơ mang đậm chất trữ tình giàu nhân đạo là một trong những điều khiến tên tuổi của ông luôn được mọi người ca tụng.

Hậu cung oán 後宮怨

雨露由來一點恩,
爭能遍佈及千門。
三千宮女臙脂面,
幾個春來無淚痕。

Hậu cung oán

Vũ lộ do lai nhất điểm ân,
Tranh năng biến bố cập thiên môn.
Tam thiên cung nữ yên chi diện,
Kỷ cá xuân lai vô lệ ngân.

Dịch nghĩa

Mưa móc (ơn vua ban) có hạn,
Làm sao có thể ban bố cho cả ngàn nơi.
Trong ba ngàn cung nữ son phấn trẻ đẹp,
Khi xuân về có mấy người là không có ngấn lệ?

Hậu cung từ 後宮詞

淚盡羅巾夢不成,
夜深前殿按歌聲。
紅顏未老恩先斷,
斜倚薰籠坐到明。

Hậu cung từ

Lệ tận la cân mộng bất thành,
Dạ thâm tiền điện án ca thanh.
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tà ỷ huân lung toạ đáo minh.

Dịch nghĩa

Nước mắt thấm ướt tấm khăn là, mộng không thành nữa rồi
Đêm về khuya trước cung điện nghe có tiếng ca
Hồng nhan chưa già mà ân vua đã tuyệt
Dựa vào lò hương ngồi chờ đến sáng

Hí đáp chư thiếu niên 戲答諸少年 

顧我長年頭似雪,
饒君壯歲氣如雲。
朱顏今日雖欺我,
白髮他時不放君。

Hí đáp chư thiếu niên

Cố ngã trường niên đầu tự tuyết,
Nhiêu quân tráng tuế khí như vân.
Chu nhan kim nhật tuy khi ngã,
Bạch phát tha thì bất phóng quân.

Dịch nghĩa

Hãy coi ta, năm tháng dài đã làm đầu ta trắng như tuyết,
Các cháu đang ở tuổi mới lớn cường tráng, khí huyết như mây trời.
Nay những người dung nhan hồng hào coi như đang lấn lướt ta,
Nhưng sẽ tới lúc tóc bạc không bỏ qua một ai trong các cháu.

Hí đề tân tài tường vi 戲題新栽薔薇

移根易地莫憔悴,
野外庭前一种春。
少府無妻春寂寞,
花開將爾當夫人。
Hí đề tân tài tường vi
Di căn dịch địa mạc tiều tuỵ,
Dã ngoại đình tiền nhất chủng xuân.
Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch,
Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân.
Dịch nghĩa
Rễ dời, đất đổi, đừng nên tiều tuỵ
Ngoài đồng hay trước sân cũng là một thứ xuân thôi
Quan thiếu phủ không vợ, mùa xuân quạnh quẽ lắm
Hoa nở, sẽ lấy mi làm phu nhân

Hoạ Dương thượng thư bãi tướng hậu hạ nhật du Vĩnh An thuỷ đình, kiêm chiêu bản Tào Dương thị lang đồng hành 

道行無喜退無憂,
舒卷如雲得自由。
良冶動時爲哲匠,
巨川濟了作虛舟。
竹亭陰合偏宜夏,
水檻風涼不待秋。
遙愛翩翩雙紫鳳,
入同官署出同遊。

Hoạ Dương thượng thư bãi tướng hậu hạ nhật du Vĩnh An thuỷ đình, kiêm chiêu bản Tào Dương thị lang đồng hành

Đạo hành vô hỷ thoái vô ưu,
Thư quyển như vân đắc tự do.
Lương dã động thì vi triết tượng,
Cự xuyên tế liễu tác hư chu.
Trúc đình âm hợp thiên nghi hạ,
Thuỷ hạm phong lương bất đãi thu.
Dao ái phiên phiên song tử phụng,
Nhập đồng quan thự xuất đồng du.

Dịch nghĩa

Đạo khi hành không vui mà khi thoái cũng không ưu lự
Trải ra cuốn vào như mây được tự do tự tại
Thợ đúc giỏi tới việc là trở thành tay nghề
Sông lớn tới lúc qua rồi thì thuyền trở thành hư ảo
Bóng mát toả đình trúc, tuy mùa hạ mà vẫn dễ chịu
Trên thuyền gió lành lạnh, không thấy mong đợi đến mùa thu
Xa xa thấy mến hai con chim phụng tím vẻ phong lưu nho nhã
Cùng vào làm quan, cùng thoái quan ngao du

Hoạ đáp thi kỳ 4 – Hoạ đại chuỷ ô 和答詩其四-和大觜烏

烏者種有二,
名同性不同。
觜小者慈孝,
觜大者貪庸。
觜大命又長,
生來十餘冬。
物老顏色變,
頭毛白茸茸。
飛來庭樹上,
初但驚兒童。
老巫生奸計,
與烏意潛通。
雲此非凡鳥,
遙見起敬恭。
千歲乃一出,
喜賀主人翁。
祥瑞來白日,
神聖占知風。
陰作北斗使,
能為人吉凶。
此烏所止家,
家產日夜豐。
上以致壽考,
下可宜田農。
主人富家子,
身老心童蒙。
隨巫拜複祝,
婦姑亦相從。
殺雞薦其肉,
敬若禋六宗。
烏喜張大觜,
飛接在虛空。
烏既飽膻腥,
巫亦饗甘濃。
烏巫互相利,
不復兩西東。
日日營巢窟,
稍稍近房櫳。
雖生八九子,
誰辨其雌雄。
群雛又成長,
眾觜逞殘凶。
探巢吞燕卵,
入蔟啄蠶蟲。
豈無乘秋隼,
羈絆委高墉。
但食烏殘肉,
無施搏擊功。
亦有能言鸚,
翅碧觜距紅。
暫曾說烏罪,
囚閉在深籠。
青青窗前柳,
鬱鬱井上桐。
貪烏占棲息,
慈烏獨不容。
慈烏爾奚為,
來往何憧憧。
曉去先晨鼓,
暮歸後昏鐘。
辛苦塵土間,
飛啄禾黍叢。
得食將哺母,
饑腸不自充。
主人憎慈烏,
命子削彈弓。
弦續會稽竹,
丸鑄荊山銅。
慈烏求母食,
飛下爾庭中。
數粒未入口,
一丸已中胸。
仰天號一聲,
似欲訴蒼穹。
反哺日未足,
非是惜微躬。
誰能持此冤,
一為問化工。
胡然大觜烏,
竟得天年終。

Hoạ đáp thi kỳ 4 – Hoạ đại chuỷ ô

Ô giả chủng hữu nhị,
Danh đồng tính bất đồng.
Chuỷ tiểu giả từ hiếu,
Chuỷ đại giả tham dung.
Chuỷ đại mệnh hựu trường,
Sinh lai thập dư đông.
Vật lão nhan sắc biến,
Đầu mao bạch nhung nhung.
Phi lai đình thụ thượng,
Sơ đãn kinh nhi đồng.
Lão vu sinh gian kế,
Dữ ô ý tiềm thông.
Vân thử phi phàm điểu,
Dao kiến khởi kính cung.
Thiên tuế nãi nhất xuất,
Hỉ hạ chủ nhân ông.
Tường thuỵ lai bạch nhật,
Thần thánh chiêm tri phong.
Âm tác Bắc Đẩu sứ,
Năng vi nhân cát hung.
Thử ô sở chỉ gia,
Gia sản nhật dạ phong.
Thượng dĩ trí thọ khảo,
Hạ khả nghi điền nông.
Chủ nhân phú gia tử,
Thân lão tâm đồng mông.
Tuỳ vu bái phức chúc,
Phụ cô diệc tương tòng.
Sát kê trãi kỳ nhục,
Kính nhược nhân lục tông.
Ô hỉ trương đại chuỷ,
Phi tiếp tại hư không.
Ô ký bão thiên tinh,
Vu diệc hưởng cam nùng.
Ô vu hỗ tương lợi,
Bất phục lưỡng tây đông.
Nhật nhật doanh sào quật,
Sảo sảo cận phòng lung.
Tuy sinh bát cửu tử,
Thuỳ biện kỳ thư hùng.
Quần sồ hựu thành trưởng,
Chúng chuỷ sính tàn hung.
Thám sào thôn yến noãn,
Nhập thốc trác tàm trùng.
Khởi vô thừa thu chuẩn,
Ky bạn uỷ cao dung.
Đãn thực ô tàn nhục,
Vô thi bác kích công.
Diệc hữu năng ngôn anh,
Sí bích chuỷ cự hồng.
Tạm tằng thuyết ô tội,
Tù bế tại thâm lung.
Thanh thanh song tiền liễu,
Uất uất tỉnh thượng đồng.
Tham ô chiêm thê tức,
Từ ô độc bất dung.
Từ ô nhĩ hề vi,
Lai vãng hà sung sung.
Hiểu khứ tiên thần cổ,
Mộ quy hậu hôn chung.
Tân khổ trần thổ gian,
Phi trác hoà thử tùng.
Đắc thực tương phụ mẫu,
Cơ trường bất tự sung.
Chủ nhân tăng từ ô,
Mệnh tử tước đạn cung.
Huyền tục hội kê trúc,
Hoàn chú kinh sơn đồng.
Từ ô cầu mẫu thực,
Phi hạ nhĩ đình trung.
Sổ lạp vị nhập khẩu,
Nhất hoàn dĩ trung hung.
Ngưỡng thiên hiệu nhất thanh,
Tự dục tố thương khung.
Phản phụ nhật vị túc,
Phi thị tích vi cung.
Thuỳ năng trì thử oan,
Nhất vi vấn hoá công.
Hồ nhiên đại chuỷ ô,
Cánh đắc thiên niên chung.

Hoạ Đỗ lục sự đề hồng diệp 和杜錄事題紅葉

寒山十月旦
霜葉一時新
似燒非因火
如花不待春
連行排降葉
亂落剪紅巾
解駐籃轝看
風前唯兩人

Hoạ Đỗ lục sự đề hồng diệp

Hàn sơn thập nguyệt đán,
Sương diệp nhất thời tân.
Tự thiêu phi nhân hoả,
Như hoa bất đãi xuân.
Liên hàng bài giáng diệp,
Loạn lạc tiễn hồng cân.
Giải trụ lam dư khán,
Phong tiền duy lưỡng nhân.

Hoa phi hoa 花非花

花非花,
霧非霧。
夜半來,
天明去。
來如春夢幾多時,
去似朝雲無覓處

Hoa phi hoa

Hoa phi hoa,
Vụ phi vụ.
Dạ bán lai,
Thiên minh khứ.
Lai như xuân mộng kỷ đa thời,
Khứ tự triêu vân vô mịch xứ!

Dịch nghĩa

Rằng hoa, thì không phải là hoa,
Rằng mây, thì không phải là mây.
Nửa đêm tới,
Sáng hôm sau lại đi mất.
Khi đến thì như giấc mộng xuân không được bao lâu,
Khi đi thì như mây trời không biết đâu mà tìm lại được.

Hoạ trúc ca 畫竹歌 

植物之中竹難寫,
古今雖畫無似者。
蕭郎下筆獨逼真,
丹青以來唯一人。
人畫竹身肥擁腫,
蕭畫莖瘦節節竦。
人畫竹梢死羸垂,
蕭畫枝活葉葉動。
不根而生從意生,
不筍而成由筆成。
野塘水邊碕岸側,
森森兩叢十五莖。
嬋娟不失筠粉態,
蕭颯盡得風煙情。
舉頭忽看不似畫,
低耳靜聽疑有聲。
西叢七莖勁而健,
省問天竺寺前石上見。
東叢八莖疏且寒,
憶曾湘妃廟裏雨中看。
幽姿遠思少人別,
與君相顧空長嘆。
蕭郎蕭郎老可惜,
手顫眼昏頭雪色。
自言便是絕筆時,
從今此竹尤難得!

Hoạ trúc ca

Thực vật chi trung trúc nan tả,
Cổ kim tuy hoạ vô tự giả.
Tiêu lang há bút độc bức chân,
Đan thanh dĩ lai duy nhất nhân.
Nhân hoạ trúc thân phì ủng thũng,
Tiêu hoạ hành sấu tiết tiết tủng.
Nhân hoạ trúc tiêu tử nuy thuỳ,
Tiêu hoạ chi hoạt diệp diệp động.
Bất căn nhi sinh tòng ý sinh,
Bất duẩn nhi thành do bút thành.
Dã đường thuỷ biên khi ngạn trắc,
Sâm sâm lưỡng tùng thập ngũ hành.
Thuyền quyên bất thất quân phấn thái,
Tiêu táp tận đắc phong yên tình.
Cử đầu hốt khan bất tự hoạ,
Đê nhĩ tĩnh thinh nghi hữu thanh.
Tây tùng thất hành kính nhi kiện,
Tỉnh vấn Thiên Trúc tự tiền thạch thượng kiến.
Đông tùng bát hành sơ thả hàn,
Ức tằng Tương phi miếu lý vũ trung khán.
U tư viễn tứ thiểu nhân biệt,
Dữ quân tương cố không trường thán.
Tiêu lang! Tiêu Lang! Lão khả tích,
Thủ đản nhãn hôn đầu tuyết sắc.
Tự ngôn tiện thị tuyệt bút thì,
Tòng kim thử trúc vưu nan đắc!

Dịch nghĩa

Trong loài thực vật, chỉ có tre là khó vẽ,
Từ xưa tới nay có nhiều người vẽ nhưng không giống.
Chỉ có quan lang Tiêu xuống bút là bắt buộc y như thật,
Nghệ thuật vẽ tre chỉ tới từ một người duy nhất này.
Người ta vẽ thân tre mập mạp trông thật nặng nề,
Tiêu vẽ thân tre mảnh khảnh, đốt tre vươn thẳng.
Người ta vẽ ngọn tre yếu đuối rủ xuống như chết,
Tiêu vẽ cành linh hoạt, lá sống động.
Không vẽ gốc nhưng sức sống toát từ ý chí,
Không từ măng lớn lên nhưng hình thành do nét bút.
Trông nghiêng ven nước một bờ đê miền quê,
Có hai khóm tre rậm rạp gồm 15 cây.
Nom như những người đẹp không quên điểm trang phấn tre,
Buồn bã chịu đựng gió lay và sương khói.
Ngửng đầu thoạt nhìn không tin là tranh vẽ,
Ghé tai lắng nghe ngờ như có tiếng gió thổi.
Khóm 7 cây ở phía tây thấy cứng cỏi, mạnh mẽ,
Tự hỏi đã thấy trong kẽ đá chùa Thiên Trúc.
Khóm 8 cây bên phía đông mọc rải rác, dáng rét mướt,
Gợi nhớ như đã thấy tre Tương bên miếu hai bà trong mưa.
Dáng tre xinh đẹp nơi u tịch, ý tre cao xa, ít người nhận ra,
Ngẫm nghĩ về ông, ta chỉ có những lời tán thán suông này.
Quan lang Tiêu! Hỡi quan lang Tiêu! Thật tiếc ông đã già,
Tay đã run, mắt đã mờ, tóc mang màu tuyết.
Tranh ông vẽ tự nói lên rằng bút lực của ông tuyệt vời,
Từ nay bức tranh tre này sẽ là đồ hiếm quý khó có.

Hồ tuyền nữ 胡旋女

胡旋女,胡旋女,
心應弦,手應鼓。
弦鼓一聲雙袖舉,
回雪飄搖轉蓬舞。
左旋右轉不知疲,
千匝萬周無已時。
人間物類無可比,
奔車輪緩旋風遲。
曲終再拜謝天子,
天子為之微啟齒。
胡旋女,出康居,
徒勞東來萬里余。
中原自有胡旋者,
斗妙爭能爾不如。
天寶季年時欲變,
臣妾人人學圜轉。
中有太真外祿山,
二人最道能胡旋。
梨花園中冊作妃,
金雞障下養為兒。
祿山胡旋迷君眼,
兵過黃河疑未反。
貴妃胡旋惑君心,
死棄馬嵬念更深。
從茲地軸天維轉,
五十年來制不禁。
胡旋女,莫空舞,
數唱此歌悟明主。

Hồ tuyền nữ

Hồ tuyền nữ, Hồ tuyền nữ,
Tâm ứng huyền, thủ ứng cổ.
Huyền cổ nhất thanh song tụ cử,
Hồi tuyết phiêu dao chuyển bồng vũ.
Tả tuyền hữu chuyển bất tri bì,
Thiên tạp vạn chu vô dĩ thì.
Nhân gian vật loại vô khả tỷ,
Bôn xa luân hoãn tuyền phong trì.
Khúc chung tái bái tạ thiên tử,
Thiên tử vị chi vi khởi xỉ.
Hồ tuyền nữ, xuất khang cư,
Đồ lao đông lai vạn lý dư.
Trung nguyên tự hữu Hồ tuyền giả,
Đấu diệu tranh năng nhĩ bất như.
Thiên Bảo quý niên thời dục biến,
Thần thiếp nhân nhân học hoàn chuyển.
Trung hữu Thái Chân ngoại Lộc Sơn,
Nhị nhân tối đạo năng Hồ tuyền.
Lê hoa viên trung sách tác phi,
Kim kê chướng hạ dưỡng vi nhi.
Lộc Sơn Hồ tuyền mê quân nhãn,
Binh quá Hoàng hà nghi vị phản.
Quý phi Hồ tuyền hoặc quân tâm,
Tử khí Mã Ngôi niệm cánh thâm.
Tòng tư địa trục thiên duy chuyển,
Ngũ thập niên lai chế bất cấm.
Hồ tuyền nữ, mạc không vũ,
Sổ xướng thử ca ngộ minh chủ.

Hồng anh vũ (Thương Sơn lộ phùng) 紅鸚鵡(商山路逢)

安南遠進紅鸚鵡,
色似桃花語似人。
文章辯慧皆如此,
籠檻何年出得身。

Hồng anh vũ (Thương Sơn lộ phùng)

An Nam viễn tiến hồng anh vũ,
Sắc tự đào hoa ngữ tự nhân.
Văn chương biện tuệ giai như thử,
Lung hạm hà niên xuất đắc thân.

Dịch nghĩa

An Nam từ xa gửi biếu con vẹt hồng,
Mầu tựa hoa đào, tiếng tựa người.
Văn bài, cãi lý, suy nghĩ, đều như thế cả,
Lồng cũi, năm nào thoát được thân.

Hồng tuyến thảm 紅線毯 • Thảm sợi đỏ

紅線毯,
擇繭繅絲清水煮,
揀絲練線紅藍染。
染為紅線紅于花,
織作披香殿上毯。
披香殿廣十余丈,
紅線織成可殿鋪。
彩絲茸茸香拂拂,
線軟花虛不勝物。
美人踏上來歌舞,
羅襪繡鞋隨步沒。
太原毯澀毳縷硬,
蜀都褥薄錦花冷。
不如此毯溫且柔,
年年十月來宣州。
宣州太守加樣織,
自謂為臣能竭力。
百夫同擔進宮中,
線厚絲多卷不得。
宣州太守知不知?
一丈毯,千兩絲,
地不知寒人要暖,
少奪人衣作地衣。

Hồng tuyến thảm

Hồng tuyến thảm,
Trạch kiển sào ty thanh thuỷ chử,
Giản ty luyện tuyến hồng lam nhiễm.
Nhiễm vi hồng tuyến hồng vu hoa,
Chức tác Phi Hương điện thượng thảm.
Phi Hương điện quảng thập dư trượng,
Hồng tuyến chức thành khả điện phô.
Thái ty nhung nhung hương phất phất,
Tuyến nhuyễn hoa hư bất thắng vật.
Mỹ nhân đạp thượng lai ca vũ,
La miệt tú hài tuỳ bộ một.
Thái Nguyên thảm sáp thuế lũ ngạnh,
Thục đô nhục bạc cẩm hoa lãnh.
Bất như thử thảm ôn thả nhu,
Niên niên thập nguyệt lai Tuyên châu.
Tuyên châu thái thú gia dạng chức,
Tự vị vi thần năng kiệt lực.
Bách phu đồng đảm tiến cung trung,
Tuyến hậu ty đa quyển bất đắc.
Tuyên châu thái thú tri bất tri?
Nhất trượng thảm, thiên lưỡng ty,
Địa bất tri hàn nhân yếu noãn,
Thiểu đoạt nhân y tác địa y.

Hung trạch 凶宅 • Ngôi nhà xúi

長安多大宅,
列在街西東。
往往朱門內,
房廊相對空。
梟鳴松桂枝,
狐藏蘭菊叢。
蒼苔黃葉地,
日暮多旋風。
前主為將相,
得罪竄巴庸。
後主為公卿,
寢疾歿其中。
連延四五主,
殃禍繼相鐘。
自從十年來,
不利主人翁。
風雨壞檐隙,
蛇鼠穿牆墉。
人疑不敢買,
日毀土木功。
嗟嗟俗人心,
甚矣其愚蒙。
旦恐災將至,
不思禍所從。
我今題此詩,
欲悟迷者胸。
凡為大官人,
年祿多高崇。
權重持難久,
位高勢易窮。
驕者物之盈,
老者數之終。
四者如寇盜,
日夜來相攻。
假使居吉土,
孰能保其躬。
因小以明大,
借家可喻邦。
周秦宅崤函,
其宅非不同。
一興八百年,
一死望夷宮。
寄語家與國,
人凶非宅凶。

Hung trạch

Trường An đa đại trạch,
Liệt tại nhai tây đông.
Vãng vãng chu môn nội,
Phòng lang tương đối không.
Kiêu minh tùng quế thụ,
Hồ tàng lan cúc tùng.
Thương đài hoàng diệp địa,
Nhật mộ đa tuyền phong.
Tiền chủ vi tương tướng,
Đắc tội thoán Ba Dung.
Hậu chủ vi công khanh,
Tẩm tật một kỳ trung.
Liên diên tứ ngũ chủ,
Ương họa kế tương chung.
Tự tòng thập niên lai,
Bất lợi chủ nhân ông.
Phong vũ hoại thiềm khích,
Xà thử xuyên tưởng dung.
Nhân nghi bất cảm mãi,
Nhật hủy thổ mộc công.
Ta ta tục nhân tâm,
Thẫm hỹ kỳ ngu mông.
Đãn khủng tai tương chí,
Bất tư họa sở tòng.
Ngã kim đề thử thì,
Dục mộ mê giả dung.
Phàm vi đại quan nhân,
Niên lộc đa cao sùng.
Quyền trọng trì nan cửu,
Vị cao thế dị cùng.
Kiêu giả vật chi doanh,
Lão giả số chi chung.
Tứ giả như khấu đạo,
Nhật dạ lai tương công.
Giả sử cư cát thổ,
Thục năng bảo kỳ cung?
Nhân tiểu dĩ minh đại,
Tá gia khả dụ bang.
Chu, Tần trạch Hào, Hàm,
Kỳ trạch phi bất đồng.
Nhất hưng bát bách niên,
Nhất tử Vọng Di cung.
Ký ngữ gia dữ quốc,
Nhân hung phi trạch hung.

Dịch nghĩa

Ở Trường An có nhiều nhà lớn
Từng dãy thẳng, đứng hai bên đường
Thường thường bên trong cửa son
Có những phòng hiên đối nhau mà bỏ không
Cú kêu trong cây tùng, cây quế
Cáo ẩn nơi khóm cúc, khóm lan
Mặt đất đầy rêu xanh, lá vàng rải rác
Mỗi buổi chiều tà từng cơn gió lốc thổi
Chủ trước làm quan tướng
Phải tội đày đi Ba Dung
Chủ sau là bậc công khanh
Ốm lâu rồi cũng chết trong nhà ấy
Liền liền đến bốn năm chủ
Tai vạ cứ kế tiếp dồn
Đã từ mười năm lại đây
(Cái nhà này) không lợi chủ!
Mưa gió làm hỏng hết mái hiên, khe cửa
Chuột rắn đục khoét kẽ ngặt, chân tường
Người ta nghi hoặc, chẳng ai dám mua
Những vật xây dựng bằng gạch, gỗ, ngày một hư nát
Than ôi! Bụng dạ người đời
Sao mà ngu muội quá thế!
Chỉ sợ tai vạ sẽ đến
Không nghĩ xem nó từ đâu ra
Nay ta viết bài thơ này
mong thức tỉnh những người mê muội trong lòng
Phàm đã làm đến quan to
Phần nhiều tuổi cao mà bổng hậu
Quyền đã to thì khó giữ được lâu
Ngôi đã cao thì thế dễ cùng
Kiêu mãn, theo lẽ của sự vật, tất sẽ tràn đổ
Già là lúc số mệnh sắp hết
Bốn điều ấy như trộm cướp
Ngày đêm xúm lại tiến công mình
Ví bằng có được ở chỗ đất lành
Dễ ai đã giữ được toàn thân?
Suy việc nhỏ để rõ việc lớn
Mượn việc nhà để ví việc nước:
Nhà Chu, nhà Tần cùng đóng đô ở Hào, Hàm cả
(Thế là) chỗ ở không phải không giống nhau
(Vậy mà) một đằng thì hưng thịnh đến tám trăm năm
Một đằng thì hết đời ở cung Vọng Di
Nhắn nhủ những ai có nhà, có nước
Chỉ có người dữ, chứ không có nhà dữ!

Qua bài viết này của chúng tôi, chắc hẳn các bạn đã phần nào cảm nhận được ngòi bút tài hoa của nhà thơ Bạch Cư Dị. Ta càng thêm khâm phục tài năng cũng như kính nể nhà thơ vang danh này. Không hổ là một trong những nhà thơ hàng đầu Trung Quốc.

Tagged: