Đối với những quý độc giả yêu thơ, chắc không thể bỏ lỡ những trang thơ của Bạch Cư Dị phải không nào! Sở dĩ như vậy bởi ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Ông sở hữu lối thơ trữ tình luôn bênh vực nhân dân và công kích những quan lại ăn chơi vô độ. Nếu bạn tò mò về Bạch Cư Dị thì hãy cùng nhau chiêm ngưỡng những tuyệt phẩm nổi bật của ông nhé!

Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪

簷間清風簟,
松下明月盃。
幽意正如此,
況乃故人來。

Hữu nhân dạ phỏng

Thiềm gian thanh phong đạm,
Tùng hạ minh nguyệt bôi.
U ý chính như thử,
Huống nãi cố nhân lai.

Dịch nghĩa

Trên thềm gió mát trải chiếu
Dưới gốc thông, có ánh trăng và rượu
Thanh nhàn như thế đó
Huống hồ còn có bạn cũ lại chơi

Hỷ bãi quận 喜罷郡

五年兩郡亦堪嗟,
偷出遊山走看花。
自此光陰為己有,
從前日月屬官家。
樽前免被催迎使,
枕上休聞報坐衙。
睡到午時歡到夜,
回看官職是泥沙。

Hỷ bãi quận

Ngũ niên lưỡng quận diệc kham ta,
Thâu xuất du sơn tẩu khán hoa.
Tự thử quang âm vi kỷ hữu,
Tòng tiền nhật nguyệt thuộc quan gia.
Tôn tiền miễn bị thôi nghinh sứ,
Chẩm thượng hưu văn báo toạ nha.
Thuỵ đáo ngọ thì hoan đáo dạ,
Hồi khan quan chức thị nê sa.

Khách trung nguyệt 客中月 • Trăng đất khách

客從江南來,
來時月上弦。
悠悠行旅中,
三見清光圓。
曉隨殘月行,
夕與新月宿。
誰謂月無情,
千里遠相逐。
朝發渭水橋,
暮入長安陌。
不知今夜月,
又作誰家客?

Khách trung nguyệt

Khách tòng Giang Nam lai,
Lai thì nguyệt thượng huyền.
Du du hành lữ trung,
Tam kiến thanh quang viên.
Hiểu tuỳ tàn nguyệt hành,
Tịch dữ tân nguyệt túc.
Thuỳ vị nguyệt vô tình,
Thiên lý viễn tương trục.
Triêu phát Vị Thuỷ kiều,
Mộ nhập Trường An mạch.
Bất tri kim dạ nguyệt,
Hựu tác thuỳ gia khách?

Dịch nghĩa

Khách từ Giang Nam đến,
Khi đến thì mới tuần trăng non.
Trong bước đường dài dằng dặc,
Đã ba độ thấy vầng trăng tròn.
Có khi ban mai đi dưới ánh trăng đang lặn,
Có khi ban đêm nghỉ lúc trăng vừa ló lên.
Ai bảo trăng không có tình?
Nghìn dặm xa vẫn theo nhau mãi.
Sáng ra đi từ cầu sông Vị,
Chiều trên đường Trường An.
Chẳng hay đêm nay trăng vẫn sáng,
Mình sẽ lại là khách nhà ai.

Khán thái liên 看採蓮 • Xem hái sen

小桃閑上小蓮船,
半採紅蓮半白蓮。
不似江南惡風浪,
芙蓉池在臥床前。

Khán thái liên

Tiểu Đào nhàn thượng tiểu liên thuyền,
Bán thái hồng liên bán bạch liên.
Bất tự giang nam ác phong lãng,
Phù dung trì tại ngoạ sàng tiền.

Dịch nghĩa

Bé Đào an nhàn chèo chiếc thuyền nhỏ đi hái sen,
Nó hái nửa sen hồng, nửa sen trắng.
Không như lúc ở Giang Nam trải qua sóng gió ác hại,
Nay nằm trên giường ngay bên ao sen.

Khốc Hoàng Phủ thất lang trung Thực 哭皇甫七郎中湜

誌業過玄晏,
詞華似禰衡。
多才非福祿,
薄命是聰明。
不得人間壽,
還留身後名。
涉江文一首,
便可敵公卿。

Khốc Hoàng Phủ thất lang trung Thực

Chí nghiệp quá Huyền Yến,
Từ hoa tự Nễ Hành.
Đa tài phi phúc lộc,
Bạc mệnh thị thông minh.
Bất đắc nhân gian thọ,
Hoàn lưu thân hậu danh.
Thiệp giang văn nhất thủ,
Tiện khả địch công khanh.

Khốc Lưu Đôn Chất 哭劉敦質

小樹兩株柏,
新土三尺墳。
蒼蒼白露草,
此地哭劉君。
哭君豈無辭,
辭雲君子人。
如何天不吊,
窮悴至終身。
愚者多貴壽,
賢者獨賤迍。
龍亢彼無悔,
蠖屈此不伸。
哭罷持此辭,
吾將詰羲文。

Khốc Lưu Đôn Chất

Tiểu thụ lưỡng chu bách
Tân thổ tam xích phần
Thương thương bạch lộ thảo
Thử địa khốc Lưu quân
Khốc quân khởi vô từ
Từ vân quân tử nhân
Như hà thiên bất điếu
Cùng phó chí chung thân
Ngu giả đa quý thọ
Hiền giả độc tiện truân
Long kháng bỉ vô hối
Hoặc khuất thử bất thân
Khốc bãi cầm thử từ
Ngô tương cật hi văn.

Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 1

四海齊名白與劉,
百年交分兩綢繆。
同貧同病退閑日,
一死一生臨老頭。
杯酒英雄君與操,
文章微婉我知丘。
賢豪雖歿精靈在,
應共微之地下遊。

Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 1

Tây Hải tề danh Bạch dữ Lưu,
Bách niên giao phận lưỡng trù mâu.
Đồng bần đồng bệnh thoái nhàn nhật,
Nhất tử nhất sinh lâm lão đầu.
Bôi tửu anh hùng quân dữ tháo,
Văn chương vi uyển ngã tri khâu.
Hiền hào tuy một tinh linh tại,
Ưng cộng Vi Chi địa hạ du.

Dịch nghĩa

Ở Tây Hải danh của Bạch và Lưu ngang nhau (Bạch Cư Dị và Lưu Vũ Tích)
Trăm năm phận sự cả hai đều ngổn ngang bận rộn
Khi về hưởng nhàn, chỉ có nghèo và bệnh hoạn
Cả hai cùng già, một chết một sống
Chén rượu anh hùng, anh tán trợ tiết tháo
Văn chương vụn vặt nhu nhuyển, tôi gìn giữ lề lối
Người tài tuy mất nhưng anh linh vẫn còn
Cùng với Vi Chi đi vào lòng đất lạnh.

Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 2

今日哭君吾道孤,
寢門淚滿白髭須。
不知箭折弓何用,
兼恐唇亡齒亦枯。
窅窅窮泉埋寶玉,
駸駸落景掛桑榆。
夜台暮齒期非遠,
但問前頭相見無。

Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 2

Kim nhật khốc quân ngô đạo cô,
Tẩm môn lệ mãn bạch tư tu.
Bất tri tiễn chiết cung hà dụng,
Kiêm khủng thần vong xỉ diệc khô.
Yểu yểu cùng tuyền mai bảo ngọc,
Xâm xâm lạc cảnh quải tang du.
Dạ đài mộ xỉ kỳ phi viễn,
Đán vấn tiền đầu tương kiến vô.

Dịch nghĩa

Hôm nay khóc anh, đường tôi đi lẻ loi
Cửa lăng mộ, lệ chảy đầy râu trắng
Biết đâu tên gãy rồi, cung dùng làm gì được
E sợ môi mất thì răng cũng khô theo
Nơi đầu suối (hoàng tuyền)chôn sâu viên ngọc quý
Xâm xâm đến chốn lạc cảnh, tôi như cây dâu buổi chiều
Dạ đài, tuổi tôi đến kỳ cũng không xa lắm
Chỉ hỏi mai mốt đây muốn gặp nhau, chắc không được.

Khúc giang hữu cảm 曲江有感

曲江西岸又春風,
萬樹花前一老翁。
遇酒逢花還且醉,
若論惆悵事何窮。

Khúc giang hữu cảm

Khúc giang tây ngạn hựu xuân phong,
Vạn thụ hoa tiền nhất lão ông.
Ngộ tửu phùng hoa hoàn thả tuý,
Nhược luận trù trướng sự hà cùng.

Dịch nghĩa

Lại tới bờ tây Khúc Giang hóng gió xuân,
Trước hoa và muôn cây là một lão ông.
Gặp hoa và rượu thà là cứ uống say,
Chứ đem chuyện buồn ra mà bàn luận thì tới khi nào mới hết!

Khúc giang tuý hậu tặng chư thân cố

郭東丘墓何年客,
江畔風光幾日春。
只合殷勤逐杯酒,
不須疏索向交親。
中天或有長生藥,
下界應無不死人。
除卻醉來開口笑,
世間何事更關身。

Khúc giang tuý hậu tặng chư thân cố

Quách đông khâu mộ hà niên khách,
Giang bạn phong quang kỷ nhật xuân.
Chỉ hợp ân cần trục bôi tửu,
Bất tu sơ sách hướng giao thân.
Trung thiên hoặc hữu trường sinh dược,
Hạ giới ưng vô bất tử nhân.
Trừ khước túy lai khai khẩu tiếu,
Thế gian hà sự cánh quan thân.

Dịch nghĩa

Mồ mả bên tường thành phía đông chôn năm nào vậy?
Đã qua được mấy mùa xuân bên sông này?
Nay chỉ cần cùng nhau nâng ly rượu uống,
Đừng ngại nghèo sơ với bạn thân.
Trong trời đất có thể có thuốc trường sinh,
Nhưng dưới trần gian này chưa có ai không chết cả.
Trừ những lúc say mở miệng cười,
Thế gian hơn thua nhau về cân đai làm chi.

Khúc giang ức Nguyên Cửu 曲江憶元九

春來無伴閒遊少,
行樂三分減二分。
何況今朝杏園裡,
閒人逢盡不逢君。

Khúc giang ức Nguyên Cửu

Xuân lai vô bạn nhàn du thiểu,
Hành lạc tam phân giảm nhị phân.
Hà huống kim triêu hạnh viên lý,
Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân.

Dịch nghĩa

Xuân tới không bạn nên ít rong chơi
Ba phần vui thú, bớt đi hai phần
Huống chi sáng nay trong vườn hạnh
Gặp đủ mọi người nhàn hạ mà chẳng gặp anh.

Khuê oán từ kỳ 1 閨怨詞其一 •

朝憎鶯百囀,
夜妒燕雙棲。
不慣經春別,
誰知到曉啼。

Khuê oán từ kỳ 1

Triêu tăng oanh bách chuyển,
Dạ đố yến song thê.
Bất quán kinh xuân biệt,
Duy tri đáo hiểu đề.

Dịch nghĩa

Buổi sáng ghét nghe hàng trăm con oanh hót,
Ban đêm ganh với đôi én đậu bên nhau.
Không quen với cuộc ly biệt mùa xuân,
Chỉ biết kêu tới sáng.

Khuê oán từ kỳ 2 閨怨詞其二

珠箔籠寒月,
紗窗背曉燈。
夜來巾上淚,
一半是春冰。

Khuê oán từ kỳ 2

Châu bạc lung hàn nguyệt,
Sa song bối hiểu đăng.
Dạ lai cân thượng lệ,
Nhất bán thị xuân băng.

Dịch nghĩa

Bóng rèm ngọc lồng bóng trăng lạnh
Tựa song the, cùng ngọn đèn buổi rạng sáng
Đêm về, nước mắt trên tấm khăn tay
Một nửa đã (đóng thành) băng giá mùa xuân

Khuê oán từ kỳ 3 閨怨詞其三

關山征戍遠,
閨閣別離難。
苦戰應憔悴,
寒衣不要寬。

Khuê oán từ kỳ 3

Quan san chinh thú viễn,
Khuê các biệt ly nan.
Khổ chiến ưng tiều tuỵ,
Hàn y bất yêu khoan.

Dịch nghĩa

Người đi lính ngoài biên ải xa xôi
Nỗi chia lìa nơi phòng khuê càng khốn đốn
Đánh nhau gian khổ chắc người hốc hác
Áo rét mong chớ rộng thùng thình.

Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 1

五架三間新草堂,
石階桂柱竹編牆。
南簷納日冬天暖,
北戶迎風夏月涼。
灑砌飛泉才有點,
拂窗斜竹不成行。
來春更葺東廂屋,
紙閣蘆簾著孟光。

Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 1

Ngũ giá tam gian tân thảo đường,
Thạch giai quế trụ trúc biên tường.
Nam thiềm nạp nhật đông thiên noãn,
Bắc hộ nghinh phong hạ nguyệt lương.
Sái thế phi tuyền tài hữu điểm,
Phất song tà trúc bất thành hàng.
Lai xuân cánh tập đông sương ốc,
Chỉ các lô liêm trước mạnh quang.

Dịch nghĩa

Ngôi nhà cỏ mới cất gồm năm xà ngang, chia làm ba gian,
Thềm bắng đá, cột bằng thân cây quế và tường bằng phên tre.
Gian nhà hướng nam nhận nắng sớm mùa đông ấm,
Gian nhà hướng bắc đón gió, mùa hè đêm trăng mát.
Nước suối bay từ trên cao gội đá tô điểm thêm nét đẹp,
Trúc trồng không ngay hàng phất phơ bên song.
Xuân tới sẽ làm thêm trái nhà phía đông,
Rèm sậy làm thư phòng sáng sủa.

Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 4 

日高睡足猶慵起,
小閣重衾不怕寒。
遺愛寺鐘欹枕聽,
香爐峰雪撥簾看。
匡廬便是逃名地,
司馬仍為送老官。
心泰身寧是歸處,
故鄉何獨在長安。

Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 4

Nhật cao thuỵ túc do dung khởi,
Tiểu các trùng khâm bất phạ hàn.
Di Ái tự chung y chẩm thính,
Hương Lô phong tuyết bát liêm khán.
Khuông lư tiện thị đào danh địa,
Tư mã nhưng vi tống lão quan.
Tâm thái thân ninh thị quy xứ,
Cố hương hà độc tại Trường An.

Dịch nghĩa

Mặt trời lên đã cao, ngủ đủ, nhưng làm biếng chưa đứng dậy,
Trên gác nhỏ đắp hai lớp chăn nên không sợ lạnh.
Gối đầu mà nghe chuông chùa Di Ái,
Vén rèm đã thấy ngọn Hương Lô phủ tuyết.
Khuông Lư là nơi tránh tiếng tăm,
Tư mã đúng là chức quan dành cho quan già.
Nơi đây tâm trí thành thơi, thân yên ổn là nơi trở về rồi,
Đâu phải chỉ Trường An mới là quê cũ.

Hương Sơn tị thử kỳ 2 香山避暑其二

六月灘聲如猛雨,
香山樓北暢師房。
夜深起憑欄桿立,
滿耳潺湲滿面涼。

Hương Sơn tị thử kỳ 2

Lục nguyệt than thanh như mãnh vũ,
Hương Sơn lâu bắc sướng sư phòng.
Dạ thâm khởi bằng lan can lập,
Mãn nhĩ sàn viên mãn diện lương.

Hữu mộc kỳ 7 – Lăng tiêu hoa 有木其七-凌霄花

有木名凌霄,
擢秀非孤標。
偶依一株樹,
遂抽百尺條。
託根附樹身,
開花寄樹梢。
自謂得其勢,
無因有動搖。
一朝樹摧倒,
獨立暫飄颻。
疾風從東起,
吹折不終朝。
朝為拂雲花,
暮為委地樵。
寄言立身者,
勿學柔弱苗。

Hữu mộc kỳ 7 – Lăng tiêu hoa

Hữu mộc danh lăng tiêu,
Trạc tú phi cô tiêu.
Ngẫu y nhất châu thụ,
Toại trừu bách xích điều.
Thác căn phụ thụ thân,
Khai hoa kí thụ sao.
Tự vị đắc kì thế,
Vô nhân hữu động dao.
Nhất đán thụ tồi đảo,
Độc lập tạm phiêu dao.
Tật phong tòng đông khởi,
Xuy chiết bất chung triêu.
Triêu vi phất vân hoa,
Mộ vi uỷ địa tiều.
Kí ngôn lập thân giả,
Vật học nhu nhược miêu!

Dịch nghĩa

Có cây tên là lăng tiêu,
Lớn lên tươi tốt nhưng ngọn không lẻ loi.
Tình cờ được nương nhờ theo một thân cây nào đó,
Thế là nó có thể vươn lên thành cây dây leo dài cả trăm thước.
Rễ nó ăn nhờ thân cây,
Hoa nó nở trên cành cây.
Tự cho là có thế lực,
Không ai lay chuyển được nó.
Một buổi sáng kia cây bị đốn đổ,
Nó còn tạm đứng phất phơ trước gió.
Gió mạnh từ phía đông thổi tới,
Nó bị thổi gãy nội trong buổi sáng.
Buổi sáng còn là hoa trên cao chạm mây,
Buổi chiều đã thành củi chất đống trên mặt đất.
Gửi lời tới những kẻ đang gây dựng sự nghiệp,
Đừng có học loài cây leo mềm yếu này.

Kiến Doãn Công Lượng tân thi ngẫu tặng tuyệt cú

袖裏新詩十首餘,
吟看句句是瓊琚。
如何持此將干謁,
不及公卿一紙書。

Kiến Doãn Công Lượng tân thi ngẫu tặng tuyệt cú

Tụ lý tân thi thập thủ dư,
Ngâm khan cú cú thị quỳnh cư.
Như hà trì thử tương can yết,
Bất cập công khanh nhất chỉ thư.

Dịch nghĩa

Trong tay áo có hơn chục bài thơ mới làm,
Ngâm thử và xem kỹ lại từng câu, thấy đều hay và quý như ngọc quỳnh, cư.
Vậy mà tại sao, đem trình các quan lớn đọc,
Chẳng được ai cho một chữ khen chê!

Kiến Xương giang 建昌江

建昌江水縣門前,
立馬教人喚渡船。
忽似往年歸蔡渡,
草風沙雨渭河邊。

Kiến Xương giang

Kiến Xương giang thuỷ huyện môn tiền,
Lập mã giáo nhân hoán độ thuyền.
Hốt tự vãng niên quy Sái độ,
Thảo phong sa vũ Vị hà biên.

Dịch nghĩa

Sông Kiến Xương chảy ngang trước cổng huyện đường,
Dừng ngựa tại bến, sai người kêu đò.
Chợt thấy như về bến đò Sái của vài năm trước,
Bên bờ sông Vị với cỏ, gió, bãi cát sông và mưa.

Ký Dương Vạn Châu Tứ Vọng lâu 寄楊萬州四望樓

江上新樓名四望,
東西南北水茫茫。
無由得與君攜手,
同憑欄杆一望鄉。

Ký Dương Vạn Châu Tứ Vọng lâu

Giang thượng tân lâu danh Tứ Vọng,
Đông tây nam bắc thuỷ mang mang.
Vô do đắc dữ quân huề thủ,
Đồng bằng lan can nhất vọng hương.

Dịch nghĩa

Lầu mới của ông cất ngay trên mặt sông, đặt tên là Tứ Vọng,
Đông tây nam bắc chỗ nào cũng thấy nước man mác.
Tình cờ được gặp ông tay bắt mặt mừng,
Cùng tựa lan can nhìn về một phía nơi quê hương ở trời xa

Ký Ân Hiệp Luật 寄殷協律

五歲優遊同過日,
一朝消散似浮雲。
琴詩酒伴皆拋我,
雪月花時最憶君。
幾度聽雞歌白日,
亦曾騎馬詠紅裙。
吳娘暮雨蕭蕭曲,
自別蘇州更不聞。

Ký Ân Hiệp Luật

Ngũ tuế ưu du đồng quá nhật,
Nhất triêu tiêu tản tự phù vân.
Cầm thi tửu bạn giai phao ngã,
Tuyết nguyệt hoa thì tối ức quân.
Kỷ độ thính kê ca bạch nhật,
Diệc tằng kỵ mã vịnh hồng quần.
Ngô nương mộ vũ tiêu tiêu khúc,
Tự biệt Tô Châu cánh bất văn.

Ký Đường Sinh 寄唐生 • Gửi Đường Sinh

賈誼哭時事,
阮籍哭路岐。
唐生今亦哭,
異代同其悲。
唐生者何人,
五十寒且饑。
不悲口無食,
不悲身無衣。
所悲忠與義,
悲甚則哭之。
太尉擊賊日,
尚書叱盜時。
大夫死凶寇,
諫議謫蠻夷。
每見如此事,
聲發涕輒隨。
往往聞其風,
俗士猶或非。
憐君頭半白,
其志竟不衰。
我亦君之徒,
鬱鬱何所為。
不能發聲哭,
轉作樂府詩。
篇篇無空文,
句句必盡規。
功高虞人箴,
痛甚騷人辭。
非求宮律高,
不務文字奇。
惟歌生民病,
願得天子知。
未得天子知,
甘受時人嗤。
藥良氣味苦,
琴澹音聲稀。
不懼權豪怒,
亦任親朋譏。
人竟無奈何,
呼作狂男兒。
每逢群盜息,
或遇雲霧披。
但自高聲歌,
庶幾天聽卑。
歌哭雖異名,
所感則同歸。
寄君三十章,
與君為哭詞。

Ký Đường Sinh

Giả Nghị khốc thời sự,
Nguyễn Tịch khốc lộ kỳ.
Đường Sinh kim diệc khốc,
Dị đại đồng kỳ bi.
Đường Sinh giả hà nhân,
Ngũ thập hàn thả cơ.
Bất bi khẩu vô thực,
Bất bi thân vô y.
Sở bi trung dữ nghĩa,
Bi thậm tắc khốc chi.
Thái uý kích tặc nhật,
Thượng thư sất đạo thì.
Đại phu tử hung khấu,
Gián nghị trích man di.
Mỗi kiến như thử sự,
Thanh phát thế triếp tuỳ.
Vãng vãng văn kỳ phong,
Tục sĩ do hoặc phi.
Liên quân đầu bán bạch,
Kỳ chí cánh bất suy.
Ngã diệc quân chi đồ,
Uất uất hà sở vi.
Bất năng phát thanh khốc,
Chuyển tác nhạc phủ thi.
Thiên thiên vô không văn,
Cú cú tất tận quy.
Công cao ngu nhân châm,
Thống thậm tao nhân từ.
Phi cầu cung luật cao,
Bất vụ văn tự kỳ.
Duy ca sinh dân bệnh,
Nguyện đắc thiên tử tri.
Vị đắc thiên tử tri,
Cam thụ thì nhân xuy.
Dược lương khí vị khổ,
Cầm đạm âm thanh hy.
Bất cụ quyền hào nộ,
Diệc nhiệm thân bằng ky.
Nhân cánh vô nại hà,
Hô tác cuồng nam nhi.
Mỗi phùng quần đạo tức,
Hoặc ngộ vân vụ phi.
Đãn tự cao thanh ca,
Thứ kỷ thiên thính ty.
Ca khốc tuy dị danh,
Sở cảm tắc đồng quy.
Ký quân tam thập chương,
Dữ quân vi khốc từ.

Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ thật đặc sắc của nhà thơ Bạch Cư Dị. Qua bài viết này chúng ta thêm phần yêu thích và ngưỡng mộ ngòi bút tinh tế và tài hoa cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của ông.

Tagged: