Bạch Cư Dị được xem là một ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Trung Quốc. Thơ ông lời lẽ rất bình dị, tác phẩm của ông đầy đủ nhất là tập Bạch thị trường khánh, gồm 71 quyển, trong đó có hơn 40 quyển là thơ. Những trang thơ của ông luôn thu hút sự quan tâm đông đảo từ bạn đọc bởi những ý tưởng hiếm có và ý nghĩa sâu sắc luôn bảo vệ nhân dân, xem thường quan lại bóc lột tàn ác.

Mộ lập 暮立 • Chiều một mình

黃昏獨立佛堂前,
滿地槐花滿樹蟬。
大抵四時心總苦,
就中腸斷是秋天。

Mộ lập

Hoàng hôn độc lập Phật đường tiền,
Mãn địa hoè hoa mãn thụ thiền.
Đại để tứ thời tâm tổng khổ,
Tựu trung trường đoạn thị thu thiên.

Nam Phố biệt 南浦別 • Chia tay ở Nam Phố

南浦淒淒別,
西風嫋嫋秋。
一看腸一斷,
好去莫回頭。

Nam Phố biệt

Nam Phố thê thê biệt,
Tây phong niệu niệu thâu (thu).
Nhất khán trường nhất đoạn,
Hảo khứ mạc hồi đầu.

Nguỵ vương đê 魏王堤 • Đê Nguỵ vương

花寒懶發鳥慵啼,
信馬閑行到日西。
何處未春先有思,
柳條無力魏王堤。

Nguỵ vương đê

Hoa hàn lãn phát điểu dung đề,
Tín mã nhàn hành đáo nhật tê (tây).
Hà xứ vị xuân tiên hữu tứ,
Liễu điều vô lực Nguỵ vương đê.

Dịch nghĩa

Hoa lạnh lười nở, chim lười hót,
Ngựa đưa tin nhàn dạo đến tận lúc mặt trời lặn về tây.
Có nơi nào đã xuân đâu mà lòng đã nhớ,
Cành liễu mềm như không có lực trên đê Nguỵ vương.

Nhàn cư 閑居 • Ở nhàn

肺病不飲酒,
眼昏不讀書。
端然無所作,
身意閑有馀。
雞棲籬落晚,
雪映林木疏。
幽獨已雲極,
何必山中居。

Nhàn cư

Phế bệnh bất ẩm tửu,
Nhãn hôn bất độc thư.
Đoan nhiên vô sở tác,
Thân ý nhàn hữu dư.
Kê thê ly lạc vãn,
Tuyết ánh lâm mộc sơ.
U độc dĩ vân cực,
Hà tất sơn trung cư.

Dịch nghĩa

Bị bệnh phổi nên không uống rượu,
Mắt kém nên chẳng đọc sách.
Vì chẳng có gì làm,
Nên thân và tâm nhàn quá.
Chiều về, gà đậu trên hàng rào đổ,
Tuyết sáng trong rừng thưa cây.
Đến mức như đang ở ẩn rồi,
Hà tất phải vào núi ở.

Ký Tương Linh 寄湘靈 • Gửi Tương Linh

淚眼凌寒凍不流,
每經高處即回頭。
遙知別后西樓上,
應憑欄杆獨自愁。

Ký Tương Linh

Lệ nhãn lăng hàn đống bất lưu,
Mỗi kinh cao xứ tức hồi đầu.
Dao tri biệt hậu tây lâu thượng,
Ưng nhẫm lan can độc tự sầu.

Ký Vi Chi kỳ 1 寄微之其一

江州望通州,
天涯與地末。
有山萬丈高,
有水千里闊。
間之以雲霧,
飛鳥不可越。
誰知千古險,
為我二人設。
通州君初到,
郁郁愁如結。
江州我方去,
迢迢行未歇。
道路日乖隔,
音信日斷絕。
因風欲寄語,
地遠聲不徹。
生當復相逢,
死當从此別。

Ký Vi Chi kỳ 1

Giang Châu vọng Thông Châu
Thiên nhai dữ địa mạt
Hữu sơn vạn trượng cao
Hữu giang thiên lý khoát
Gián chi dĩ vân vụ
Phi điểu bất khả việt
Thuỳ tri thiên cổ hiểm
Vị ngã lưỡng nhân thiết?
Thông Châu quân sơ đáo
Uất uất sầu như kết
Giang Châu ngã phương khứ
Thiều thiều hành vị yết
Đạo lộ nhật quai cách
Âm tín nhật đoạn tuyệt
Nhân phong dục ký ngữ
Địa viễn thanh bất triết
Sinh đương phục tương phùng
Tử đương tòng thử biệt!

Dịch nghĩa

Ở Giang Châu ngóng sang Thông Châu
Từ nơi chân trời đến cuối đất
Có núi cao vạn trượng
Có sông rộng nghìn dặm
Xen vào là mây mù bao phủ
Chim bay không thể vượt qua
Ai hay nghìn đời nơi ấy hiểm trở
Lại là chỗ dành cho hai chúng ta?
Bác vừa đến Thông Châu
Nỗi buồn như còn kết lại
Tôi đang đi đến Giang Châu
Đường xa chưa hề nghỉ chân
Đoạn đường mỗi ngày một xa cách
Tin tức mỗi ngày một vắng tanh
Muốn mượn gió gửi lời đi
Xa xôi tiếng không tới được
Còn sống thì còn gặp lại nhau
Nếu chết thì từ nay là vĩnh biệt!

Ký Vi Chi kỳ 2 寄微之其二 • Gửi Vi Chi kỳ 2

君遊襄陽日,
我在長安住。
今君在通州,
我過襄陽去。
襄陽九里郭,
樓堞連雲樹。
顧此稍依依,
是君舊遊處。
蒼茫蒹葭水,
中有潯陽路。
此去更相思,
江西少親故。

Ký Vi Chi kỳ 2

Quân du Tương Dương nhật,
Ngã tại Trường An trú.
Kim quân tại Thông châu,
Ngã quá Tương Dương khứ.
Tương Dương cửu lý quách,
Lâu điệp liên vân thụ.
Cố thử sảo y y,
Thị quân cựu du xứ.
Thương mang Kiêm Hà thuỷ,
Trung hữu Tầm Dương lộ.
Thử khứ cánh tương tư,
Giang tây thiếu thân cố.

Ký Vi Chi kỳ 3 寄微之其三 • Gửi Vi Chi kỳ 3

去國日已遠,
喜逢物似人。
如何含此意,
江上坐思君。
有如河岳气,
相合方氛氳。
狂風吹中絕,
两處成孤雲。
風回終有時,
雲合豈無因?
努力各自愛,
窮通我爾身。

Ký Vi Chi kỳ 3

Khứ quốc nhật dĩ viễn,
Hỉ phùng vật tự nhân.
Như hà hàm thử ý,
Giang thượng toạ tư quân.
Hữu như hà nhạc khí,
Tương hợp phương phân uân.
Cuồng phong xuy trung tuyệt,
Lưỡng xứ thành cô vân.
Phong hồi chung hữu thì,
Vân hợp khởi vô nhân?
Nỗ lực các tự ái,
Cùng thông ngã nhĩ thân.

Lạc Dương tảo xuân 洛陽早春

物華春意尚遲回,
賴有東風晝夜催。
寒縋柳腰收未得,
暖熏花口噤初開。
欲披雲霧聯襟去,
先喜瓊琚入袖來。
久病長齋詩老退,
爭禁年少洛陽才。

Lạc Dương tảo xuân

Vật hoa xuân ý thượng trì hồi,
Lại hữu đông phong trú dạ thôi.
Hàn trúy liễu yêu thu vị đắc,
Noãn huân hoa khẩu cấm sơ khai.
Dục phi vân vụ liên khâm khứ,
Tiên hỉ quỳnh cư nhập tụ lai.
Cửu bệnh trường trai thi lão thoái,
Tranh câm niên thiếu Lạc Dương tài.

Lam Kiều dịch kiến Nguyên Cửu thi 藍橋驛見元九詩

藍橋春雪君歸日,
秦嶺秋風我去時。
每到驛亭先下馬,
循牆繞柱覓君詩。

Lam Kiều dịch kiến Nguyên Cửu thi

Lam Kiều xuân tuyết quân quy nhật,
Tần Lĩnh thu phong ngã khứ thì.
Mỗi đáo dịch đình tiên hạ mã,
Tuần tường nhiễu trụ mịch quân thi.

Dịch nghĩa

Tuyết mùa xuân ở Lam Kiều, ngày bác trở về,
Gió thu trên ngọn Tần Lĩnh, buổi tôi ra đi.
Mỗi khi đến một trạm ngựa, trước tiên đều xuống ngựa,
Chạy khắp tường và quanh các cột để tìm thơ của bác.

Lãm Lư Tử Mông thị ngự cựu thi, đa dữ Vi Chi xướng hoạ, cảm kim thương tích, nhân tặng Tử Mông, đề ư quyển hậu

昔聞元九詠君詩,
悵與盧君相識遲。
今日逢君開舊卷,
卷中多道贈微之。
相看淚眼情難說,
別有傷心事豈知。
聞道咸陽墳上樹,
已抽三丈白楊枝。

Lãm Lư Tử Mông thị ngự cựu thi, đa dữ Vi Chi xướng hoạ, cảm kim thương tích, nhân tặng Tử Mông, đề ư quyển hậu

Tích văn Nguyên Cửu vịnh quân thi,
Trướng dữ Lư quân tương thức trì.
Kim nhật phùng quân khai cựu quyển,
Quyển trung đa đạo tặng Vi Chi.
Tương khan lệ nhãn tình nan thuyết,
Biệt hữu thương tâm sự khởi tri.
Văn đạo Hàm Dương phần thượng thụ,
Dĩ trừu tam trượng bạch dương chi.

Dịch nghĩa

Được biết ngày trước Nguyên Cửu có vịnh thơ với ông,
Tiếc rằng tôi quen biết ông Lư đây quá trễ.
Hôm nay tới thăm ông, mở thi tập xưa của ông,
Mới hay ông có nhiều bài xướng hoạ với Vi Chi.
Thấy văn như thấy nhau, mắt đẫm lệ nhưng khó nói nên lời,
Đâu dè từ khi xa nhau lại có chuyện thương tâm này.
Nghe nói nơi phần mộ của Nguyên Chẩn ở Hàm Dương,
Cây bạch dương đã đâm ra cành dài tới ba trượng.

Lãng đào sa kỳ 1 浪淘沙其一

一泊沙來一泊去,
一重浪滅一重生。
相攪相淘無歇日,
會交山海一時平。

Lãng đào sa kỳ 1

Nhất bạc sa lai nhất bạc khứ,
Nhất trùng lãng diệt nhất trùng sinh.
Tương giảo tương đào vô yết nhật,
Hội giao sơn hải nhất thời bình.

Lãng đào sa kỳ 2 浪淘沙其二

白浪茫茫與海連,
平沙浩浩四無邊。
暮去朝來淘不住,
遂令東海變桑田。

Lãng đào sa kỳ 2

Bạch lãng mang mang dữ hải liên,
Bình sa hạo hạo tứ vô biên.
Mộ khứ triêu lai đào bất trú,
Toại linh đông hải biến tang điền.

Lãng đào sa kỳ 3 浪淘沙其三

青草湖中萬里程,
黃梅雨裏一人行。
愁見灘頭夜泊處,
風翻暗浪打船聲。

Lãng đào sa kỳ 3

Thanh thảo hồ trung vạn lý trình,
Hoàng mai vũ lý nhất nhân hành.
Sầu kiến than đầu dạ bạc xứ,
Phong phiên ám lãng đả thuyền thanh.

Lãng đào sa kỳ 5 浪淘沙其五

海底飛塵終有日,
山頭化石豈無時。
誰道小郎拋小婦,
船頭一去沒回期。

Lãng đào sa kỳ 5

Hải để phi trần chung hữu nhật,
Sơn đầu hóa thạch khởi vô thì.
Thùy đạo tiểu lang phao tiểu phụ,
Thuyền đầu nhất khứ một hồi kỳ.

Lãng đào sa kỳ 6 浪淘沙其六

隨波逐浪到天涯,
遷客生還有幾家。
卻到帝鄉重富貴,
請君莫忘浪淘沙。

Lãng đào sa kỳ 6

Tuỳ ba trục lãng đáo thiên nha,
Thiên khách sinh hoàn hữu kỷ gia.
Khước đáo đế hương trùng phú quý,
Thỉnh quân mạc vong “Lãng đào sa”.

Lâm Đô dịch đáp Mộng Đắc 臨都驛答夢得

揚子津頭月下,
臨都驛裏燈前。
昨日老于前日,
去年春似今年。

Lâm Đô dịch đáp Mộng Đắc

Dương Tử tân đầu nguyệt há,
Lâm Đô dịch lý đăng tiền.
Tạc nhật lão ư tiền nhật,
Khứ niên xuân tự kim niên.

Dịch nghĩa

Dưới ánh trăng trên bến sông Dương Tử,
Trong quán trọ Lâm Đô, ngồi truớc đèn.
Hôm qua người già đi theo ngày hôm qua,
Nhưng xuân năm ngoái vẫn như xuân năm nay.

Lâm giang tống Hạ Chiêm 臨江送夏瞻

悲君老別我霑巾,
七十無家萬里身。
愁見舟行風又起,
白頭浪裏白頭人。

Lâm giang tống Hạ Chiêm

Bi quân lão biệt lệ triêm cân,
Thất thập vô gia vạn lý thân.
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.

Dịch nghĩa

Thương anh lúc tuổi già ly biệt, lệ ướt đẫm khăn,
Tuổi bảy mươi không nhà cửa, thân nơi vạn dặm.
Buồn trông lúc thuyền đi, gió lại nổi lên,
Ông lão bạc đầu ở giữa lớp sóng bạc đầu.

Liễu lăng 繚綾 • Lụa nõn

繚綾繚綾何所似,
不似羅綃與紈綺。
應似天台山上月明前,
四十五尺瀑布泉。
中有文章又奇絕,
地鋪白煙花簇雪。
織者何人衣者誰,
越溪寒女漢宮姬。
去年中使宣口敕,
天上取樣人間織。
織為雲外秋雁行,
染作江南春水色。
廣裁衫袖長制裙,
金鬥熨波刀翦紋。
異彩奇文相隱映,
轉側看花花不定。
昭陽舞人恩正深,
春衣一對直千金。
汗沾粉污不再著,
曳土蹋泥無惜心。
繚綾織成費功績,
莫比尋常繒與帛。
絲細繰多女手疼,
扎扎千聲不盈尺。
昭陽殿裏歌舞人,
若見織時應也惜。

Liễu lăng

Liễu lăng, liễu lăng hà sở tự,
Bất tự la tiêu dữ hoàn ỷ.
Ưng tự Thiên Thai sơn thượng nguyệt minh tiền,
Tứ thập ngũ xích bộc bố tuyền.
Trung hữu văn chương hựu kỳ tuyệt,
Địa phô bạch yên hoa thốc tuyết.
Chức giả hà nhân y giả thuỳ,
Việt khê hàn nữ Hán cung cơ.
Khứ niên trung sứ tuyên khẩu sắc,
Thiên thượng thủ dạng nhân gian chức.
Chức vi vân ngoại thu nhạn hành,
Nhiễm tác Giang Nam xuân thuỷ sắc.
Quảng tài sam tụ trường chế quần,
Kim đấu uất ba đao tiễn văn.
Dị thái kỳ văn tương ẩn ánh,
Chuyển trắc khán hoa hoa bất định.
Chiêu Dương vũ nhân ân chính thâm,
Xuân y nhất đối trực thiên kim.
Hãn triêm phấn ô bất tái trước,
Duệ thổ tháp nê vô tích tâm.
Liễu lăng chức thành phí công tích,
Mạc tỷ tầm thường tăng dữ bạch.
Ty tế sào đa nữ thủ đông,
Trát trát thiên thanh bất doanh xích.
Chiêu Dương điện lý ca vũ nhân,
Nhược kiến chức thì ưng dã tích.

Dịch nghĩa

Lụa liễu lăng! Lụa liễu lăng tựa như thứ gì?
Chẳng phải the, lụa thường cùng với lụa mịn, lụa hoa.
Nó tựa như ánh trăng sáng trước núi Thiên Thai,
Chiếu vào dòng thác đổ dài 45 thước.
Trong đó có hoa văn đẹp kỳ lạ,
Dưới chân thác bụi nước tung trắng xoá như sương khói, như hoa tuyết.
Người dệt lụa là ai, người mặc áo lụa là ai?
Gái rét run xứ Việt dệt lụa, người đẹp cung Hán mặc áo lụa.
Năm ngoái hoạn quan truyền lệnh miệng,
Triều đình ra kiểu, thợ dệt dệt:
Dệt hình đoàn chim nhạn bay ngoài mây,
Nhuộm màu như màu nước mùa xuân ở Giang Nam.
May tay áo phải rộng, quần phải dài,
Phải ủi cho lụa phẳng trước khi cắt hoa văn.
Hoa văn trên lụa liễu lăng màu đẹp lúc ẩn lúc hiện kỳ lạ,
Nhìn hoa mà lay động lụa, hoa lúc thấy lúc không.
Vũ nữ ở cung Chiêu Dương được vua ban ân sâu,
Một bộ quần áo múa giá ngàn vàng.
Mồ hôi và son phấn dính vào không mặc lại được,
Kéo lê trên đất hay đạp vào bùn không chút tiếc rẻ.
Uổng công người kéo sợi dệt nên lụa liễu lăng,
Đừng so với thứ lụa dày hay lụa thô tầm thường.
Ươm nhiều những sợi tơ nhỏ làm tay người thợ nữ đau đớn,
Khung cửi kêu chan chát hàng ngàn tiếng chưa đầy được một thước lụa.
Những người ca múa trong cung Chiêu Dương,
Nếu được xem lúc dệt lụa hẳn là cũng sẽ hối tiếc.

Lĩnh thượng vân 嶺上雲 • Mây trên đỉnh núi

嶺上白雲朝未散,
田中青麥旱將枯。
自生自滅成何事,
能逐東風作雨無。

Lĩnh thượng vân

Lĩnh thượng bạch vân triêu vị tán,
Điền trung thanh mạch hạn tương khô.
Tự sinh tự diệt thành hà sự?
Năng trục đông phong tác vũ vô?

Dịch nghĩa

Mây trắng trên đỉnh núi sáng nay chưa tan,
Lúa mạch trong ruộng khô hạn sắp héo.
Cứ tự sinh ra rồi tự tan, được việc gì?
Có thể nào đuổi theo gió đông rồi làm ra mưa được không?

Luy tuấn 羸駿 • Con tuấn mã gầy

驊騮失其主,
羸餓無人牧。
向風嘶一聲,
莽蒼黃河曲。
踏冰水畔立,
臥雪冢間宿。
歲暮田野空,
寒草不滿腹。
豈無市駿者,
盡是凡人目。
相馬失於瘦,
遂遺千裡足。
村中何擾擾,
有吏徵芻粟。
輸彼軍廄中,
化作駑駘肉。

Luy tuấn

Hoa lưu thất kỳ chủ,
Luy ngã vô nhân mục.
Hướng phong tê nhất thanh,
Mãng thương Hoàng Hà khúc.
Tháp băng thuỷ bạn lập,
Ngoạ tuyết trủng gian túc.
Tuế mộ điền dã không,
Hàn thảo bất mãn phúc.
Khởi vô thị tuấn giả,
Tận thị phàm nhân mục.
Tướng mã thất ư sấu,
Toại di thiên lý túc.
Thôn trung hà nhiễu nhiễu,
Hữu lại trưng xô túc.
Thâu bỉ quân khái trung,
Hoá tác nô thai nhục.

Dịch nghĩa

Ngựa hoa lưu mất chủ
Gầy đói không người chăn
Ngẩng đầu trước gió, hí lên một tiếng dài
Trên cánh đồng man mác, bên khúc sông Hoàng Hà
Chân giẫm lên băng bên bờ lạch nước
Thân nằm trong tuyết, giữa những mồ mả
Cuối năm đồng nội quạnh không
Cỏ lạnh ăn không đầy bụng
Nào phải là không có người mua ngựa hay đâu!
Nhưng họ đều là phường mắt thịt tầm thường
Xem ngựa chỉ thấy gầy thì chê
Không biết đến bộ vó chạy nghìn dặm
Trong thôn có gì nhốn nháo thế?
Đó là bọn nha lại đang thúc nộp cỏ và thóc
Để tải về tàu ngựa trong trại lính
Nuôi béo loài ngựa thồ!

Lưỡng chu các 兩朱閣 • Hai lầu son

兩朱閣,
南北相對起。
借問何人家?
貞元雙帝子。
帝子吹簫雙得仙,
五雲飄飄飛上天。
第宅亭台不將去,
化為佛寺在人間。
妝閣妓樓何寂靜,
柳似無腰池似鏡。
花落黃昏悄悄時,
不聞鼓吹聞鍾磬。
寺門敕榜金字書,
尼院佛庭寬有餘。
青苔明月多閑地,
比屋齊民無處居。
憶昨平陽宅初置,
並吞平人幾家地。
仙去雙雙作梵宮,
漸恐人家化為寺。

Lưỡng chu các

Lưỡng chu các,
Nam bắc tương đối khởi.
Tá vấn hà nhân gia?
Trinh Nguyên song đế tử.
Đế tử xuy tiêu đắc tiên,
Ngũ vân phiêu phiêu phi thướng thiên.
Đệ trạch đình đài bất tương khứ,
Hoá vi Phật tự tại nhân gian.
Trang gác kỹ lâu hà tịch tĩnh,
Liễu tự vô yêu trì tự kính.
Hoa lạc hoàng hôn tiễu tiễu thời,
Bất văn cổ xuy văn chung khánh.
Tự môn sắc bảng kim tự thư,
Ni viện Phật đình khoan hữu dư.
Thanh đài minh nguyệt đa nhàn địa,
Tỉ ốc tề dân vô xứ cư.
Ức tạc Bình Dương trạch sơ trí,
Bính thôn bình nhân kỷ gia địa.
Tiên khứ song song tác Phạm cung,
Tiệm khủng nhân gia hoá vi tự.

Dịch nghĩa

Hai lầu son,
Đối nhau theo hướng nam bắc.
Xin hỏi đó là nhà ai thế?
Rằng hai người con gái của hoàng đế thời Trinh Nguyên.
Công chúa mất nghe kèn sáo hoá thành tiên,
Ngồi xe sơn năm màu mây mà lên trời.
Đình đài không đi theo được,
Biến thành chùa thờ Phật tại cõi người.
Gác trang điểm, lầu ca múa giờ đây tịch mịch,
Liễu mềm như không có sống lá, ao lặng mặt phẳng như kính.
Vào lúc hoa rơi lặng lẽ trong buổi chiều,
Không còn nghe tiếng trống thúc, chỉ còn nghe tiếng chuông, tiếng khánh.
Cổng chùa treo bảng tên chùa do vua sắc phong viết bằng chữ vàng,
Chùa dành cho ni sư rất rộng.
Đây là đất an nhàn cho rêu xanh và trăng sáng,
Thường dân không vào ở được.
Nhớ xưa khi dinh công chúa Bình Dương khởi xây,
Đã chiếm hữu đất của nhiều nhà dân.
Hai tiên theo nhau về trời [dinh thự để lại] làm chùa,
E rằng dần dần nhà dân sẽ biến thành chùa.

Lý Bạch mộ 李白墓

采石江邊李白墳,
繞田無限草連雲。
可怜荒壟窮泉骨,
曾有惊天動地文。
但是詩人多薄命,
就中淪落不過君。

Lý Bạch mộ

Thái thạch giang biên Lý bạch phần,
Nhiễu điền vô hạn thảo liên vân.
Khả liên hoang lũng cùng tuyền cốt,
Tằng hữu kinh thiên động địa văn.
Đản thị thi nhân đa bạc mệnh,
Tựu trung luân lạc bất qua quân.

Lý đô uý cổ kiếm 李都尉古劍

古劍寒黯黯,
鑄來幾千秋。
白光納日月,
紫氣排斗牛。
有客借一觀,
愛之不敢求。
湛然玉匣中,
秋水澄不流。
至寶有本性,
精剛無與儔。
可使寸寸折,
不能繞指柔。
願快直士心,
將斷佞臣頭。
不願報小怨,
夜半刺私仇。
勸君慎所用,
無作神兵羞。

Lý đô uý cổ kiếm

Cổ kiếm hàn ảm ảm,
Chúc lai kỷ thiên thu.
Bạch quang nạp nhật nguyệt,
Tử khí bài đẩu ngưu.
Hữu khách tích nhất quan,
Ái chi bất cảm cầu.
Trạm nhiên ngọc hạp trung,
Thu thuỷ trừng bất lưu.
Chí bảo hữu bản tính,
Tinh cương vô dữ trù.
Khả sử thốn thốn chiết,
Bất năng nhiễu chỉ nhu.
Nguyện khoái trực sĩ tâm,
Tương đoạn nịnh thần đầu.
Bất nguyện báo tiểu oán,
Dạ bán lạp tư cừu.
Khuyến quân thận sở dụng,
Vô tác thần binh tu.

Trên đây, chúng tôi chia sẻ dành tặng quý độc giả những bài thơ vô cùng hấp dẫn của nhà Bạch Cư Dị. Ông là người luôn chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự.

Tagged: