Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ hàng đầu của Trung Quốc. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, lời bình trầm lắng, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo, bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật. Trang thơ của ông luôn được đông đảo bạn đọc ca tụng và săn đón.
Nam Phố biệt 南浦別
南浦淒淒別,
西風嫋嫋秋。
一看腸一斷,
好去莫回頭。
Nam Phố biệt
Nam Phố thê thê biệt,
Tây phong niệu niệu thâu (thu).
Nhất khán trường nhất đoạn,
Hảo khứ mạc hồi đầu.
Nguỵ vương đê 魏王堤
花寒懶發鳥慵啼,
信馬閑行到日西。
何處未春先有思,
柳條無力魏王堤。
Nguỵ vương đê
Hoa hàn lãn phát điểu dung đề,
Tín mã nhàn hành đáo nhật tê (tây).
Hà xứ vị xuân tiên hữu tứ,
Liễu điều vô lực Nguỵ vương đê.
Dịch nghĩa
Hoa lạnh lười nở, chim lười hót,
Ngựa đưa tin nhàn dạo đến tận lúc mặt trời lặn về tây.
Có nơi nào đã xuân đâu mà lòng đã nhớ,
Cành liễu mềm như không có lực trên đê Nguỵ vương.
Nhẫn cư 閑居 • Ở nhàn
肺病不飲酒,
眼昏不讀書。
端然無所作,
身意閑有馀。
雞棲籬落晚,
雪映林木疏。
幽獨已雲極,
何必山中居。
Nhàn cư
Phế bệnh bất ẩm tửu,
Nhãn hôn bất độc thư.
Đoan nhiên vô sở tác,
Thân ý nhàn hữu dư.
Kê thê ly lạc vãn,
Tuyết ánh lâm mộc sơ.
U độc dĩ vân cực,
Hà tất sơn trung cư.
Dịch nghĩa
Bị bệnh phổi nên không uống rượu,
Mắt kém nên chẳng đọc sách.
Vì chẳng có gì làm,
Nên thân và tâm nhàn quá.
Chiều về, gà đậu trên hàng rào đổ,
Tuyết sáng trong rừng thưa cây.
Đến mức như đang ở ẩn rồi,
Hà tất phải vào núi ở.
Nhàn tịch 閒夕
一聲早蟬歇,
數點青螢度。
蘭缸耿無煙,
筠簟清有露。
未歸房後寢,
且下前軒步。
斜月入低廊,
涼風滿高樹。
放懷常自適,
過景多成趣。
何法使之然,
心中無細故。
Nhàn tịch
Nhất thanh tảo thiền yết,
Sổ điểm thanh huỳnh độ.
Lan cang cảnh vô yên,
Quân điệm thanh hữu lộ.
Vị quy phòng hậu tẩm,
Thả há tiền hiên bộ.
Tà nguyệt nhập đê lang,
Lương phong mãn cao thụ.
Phóng hoài thường tự thích,
Quá cảnh đa thành thú.
Hà pháp sử chi nhiên,
Tâm trung vô tế cố.
Dịch nghĩa
Tiếng ve kêu vừa dứt
Mấy con đom đóm xanh đã bay quanh
Đèn lan sáng chiếu trời không có khói
Chiếu tre mát mẻ có sương
Chưa quay về phòng sau đi ngủ
Để xem còn thả bước ra trước sân
Ánh trăng tà chiếu vào hành lang
Gió mát thổi đầy trên những cây cao
Thả tâm hồn tự do vào nhiều thì tự nhiên thoải mái
Gặp cảnh nhiều lần thì thành thích thú
Làm cách gì mà được như vậy
Trong lòng không vướng sự cố nhỏ nhen
Nhân định 人定 • Ngồi lặng
人定月朧明,
香消枕簟清。
翠屏遮燭影,
紅袖下簾聲。
坐久吟方罷,
眠初夢未成。
誰家教鸚鵡,
故故語相驚。
Nhân định Nhân định nguyệt lung minh,
Hương tiêu chẩm điệm thanh.
Thuý bình già chúc ảnh,
Hồng tụ hạ liêm thanh.
Toạ cửu ngâm phương bãi,
Miên sơ mộng vị thành.
Thuỳ gia giáo anh vũ,
Cố cố ngữ tương kinh.
Nhuận cửu nguyệt cửu nhật độc ẩm 閏九月九日獨飲
黃花叢畔綠尊前,
猶有些些舊管弦。
偶遇閏秋重九日,
東籬獨酌一陶然。
自從九月持齋戒,
不醉重陽十五年。
Nhuận cửu nguyệt cửu nhật độc ẩm
Hoàng hoa tùng bạn lục tôn tiền,
Do hữu ta ta cựu quản huyền.
Ngẫu ngộ nhuận thu trùng cửu nhật,
Đông ly độc chước nhất đào nhiên.
Tự tòng cửu nguyệt trì trai giới,
Bất túy trùng dương thập ngũ niên.
Niệm Phật ngâm 念佛吟 • Niệm Phật ngâm
餘年七十一,
不復事吟哦。
看經費眼力,
作福畏奔波。
何以度心眼,
一聲阿彌陀。
行也阿彌陀,
坐也阿彌陀。
縱饒忙似箭,
不離阿彌陀。
達人應笑我,
多卻阿彌陀。
達也作麼生,
不達又如何?
普勸法界眾,
同念阿彌陀。
Niệm Phật ngâm
Dư niên thất thập nhất,
Bất phục sự ngâm nga.
Khán kinh phí nhãn lực,
Tác phúc uý bôn ba.
Hà dĩ độ tâm nhãn,
Nhất thanh A Di Đà.
Hành dã A Di Đà,
Toạ dã A Di Đà.
Tung nhiêu mang tự tiễn,
Bất ly A Di Đà.
Đạt nhân ưng tiếu ngã,
Đa khước A Di Đà.
Đạt dã tác ma sinh,
Bất đạt hựu như hà?
Phổ khuyến pháp giới chúng,
Đồng niệm A Di Đà.
Phiếm Thái Hồ thư sự, ký Vi Chi
煙渚雲帆處處通,
飄然舟似入虛空。
玉杯淺酌巡初匝,
金管徐吹曲未終。
黃夾纈林寒有葉,
碧琉璃水淨無風。
避旗飛鷺翩翻白,
驚鼓跳魚撥剌紅。
澗雪壓多松偃蹇,
岩泉滴久石玲瓏。
書為故事留湖上,
吟作新詩寄浙東。
軍府威容從道盛,
江山氣色定知同。
報君一事君應羨,
五宿澄波皓月中。
Phiếm Thái Hồ thư sự, ký Vi Chi
Yên chử vân phàm xứ xứ thông,
Phiêu nhiên chu tự nhập hư không.
Ngọc bôi thiển chước tuần sơ tạp,
Kim quản từ xuy khúc vị chung.
Hoàng giáp hiệt lâm hàn hữu diệp,
Bích lưu ly thuỷ tịnh vô phong.
Tỵ kỳ phi lộ phiên phiên bạch,
Kinh cổ khiêu ngư bát lạt hồng.
Giản tuyết áp đa tùng yển kiển,
Nham tuyền trích cửu thạch linh lung.
Thư vi cố sự lưu hồ thượng,
Ngâm tác tân thi ký Chiết đông.
Quân phủ uy dung tòng đạo thịnh,
Giang sơn khí sắc định tri đồng.
Báo quân nhất sự quân ưng tiện,
Ngũ túc trừng ba hạo nguyệt trung.
Phọc nhung nhân 縛戎人
縛戎人,縛戎人,
耳穿面破驅入秦。
天子矜憐不忍殺,
詔徙東南吳與越。
黃衣小使錄姓名,
領出長安乘遞行。
身被金創面多瘠,
扶病徒行日一驛。
朝餐飢渴費杯盤,
夜臥腥臊汚牀席。
忽逢江水憶交河,
垂手齊聲嗚咽歌。
其中一虜語諸虜,
爾苦非多我苦多。
同伴行人因借問,
欲說喉中氣憤憤。
自云鄉管本涼原,
大曆年中沒落蕃。
一落蕃中四十載,
遣著皮裘繫毛帶。
唯許正朝服漢儀,
斂衣整巾潛淚垂。
誓心密定歸鄉計,
不使蕃中妻子知。
暗思幸有殘筋力,
更恐年衰歸不得。
蕃候嚴兵鳥不飛,
脫身冒死奔逃歸。
晝伏宵行經大漠,
雲陰月黑風沙惡。
驚藏青冢寒草疎,
偷渡黃河夜冰薄。
忽聞漢軍鼙鼓聲,
路傍走出再拜迎。
遊騎不聽能漢語,
將軍遂縛作蕃生。
配向東南卑濕地,
定無存卹空防備。
念此吞聲仰訴天,
若爲辛苦度殘年。
涼原鄉井不得見,
胡地妻兒虛棄捐。
沒蕃被囚思漢土,
歸漢被劫爲蕃虜。
早知如此悔歸來,
兩地寧如一處苦。
縛戎人,
戎人之中我苦辛。
自古此冤應未有,
漢心漢語吐蕃身。
Phọc nhung nhân
Phọc nhung nhân! Phọc nhung nhân!
Nhĩ xuyên, diện phá, khu nhập Tần,
Thiên tử căng liên bất nhẫn sát
Chiếu tỉ đông nam Ngô dữ Việt.
Hoàng y tiểu sứ lục tính danh,
Lĩnh xuất Trường An thừa đệ hành.
Thân bị kim sang, diện đa tích,
Phù bệnh đồ hành nhật nhất dịch.
Triêu xan cơ khát phí bôi bàn,
Dạ ngoạ tinh táo ô sàng tịch.
Hốt phùng Giang thuỷ ức Giao Hà,
Thuỳ thủ tề thanh ô yết ca.
Kì trung nhất lỗ ngữ chư lỗ:
Nhĩ khổ phi đa, ngã khổ đa.
Đồng bạn hành nhân nhân tá vấn,
Dục thuyết hầu trung khí phẫn phẫn,
Tự vân hương quản bản Lương Nguyên,
Đại Lịch niên trung một lạc Phồn.
Nhất lạc Phồn trung tứ thập hải,
Thân trước bì cừu hệ mao đới.
Duy hứa chinh triêu phục Hán nghi,
Liễm y chỉnh cân tiềm lệ thuỳ,
Thệ tâm mật định qui hương kế,
Bất tử Phồn trung thê tử tri.
Ám tư hạnh hữu tàn cân cốt,
Cánh khủng niên suy qui bất đắc.
Phồn hậu nghiêm binh điểu bất phi,
Thoát thân mạo tử bôn đào qui.
Trú phục tiêu hành kinh đại mạc.
Vân âm nguyệt hắc, phong sa ác,
Kinh tàng thanh trủng hàn thảo sơ,
Thâu độ Hoàng Hà dạ băng bạc.
Hốt văn Hán quân bề cổ thanh,
Lộ bàng tẩu xuất tái bái nghênh,
Du kị bất thính năng Hán ngữ,
Tướng quân toại phọc tác Phồn sinh.
Phối hướng Giang Nam ti thấp địa,
Định vô tồn tuất không phòng bị,
Niệm thử thôn thanh ngưỡng tố thiên,
Nhược vi tân khổ độ tàn niên.
Lương Nguyên hương tỉnh bất đắc kiến,
Hồ địa thê nhi hư khí quyên.
Một Phồn bị tù tư Hán thổ,
Qui Hán bị hiếp vi Phồn lỗ.
Tảo tri như thử hối quy lai,
Lưỡng địa ninh như nhất xứ khổ.
Phọc nhung nhân!
Nhung nhân chi trung ngã khổ tân.
Tự cổ thử oan ứng vị hữu,
Hán tâm Hán ngữ Thổ Phồn thân!
Dịch nghĩa
Người Nhung bị trói! Người Nhung bị trói!
Tai thủng, mặt bầm tím, bị giải tới đất Tần.
Vua thương tình không nỡ giết,
Truyền dời đến vùng đông nam đất Ngô và Việt.
Sứ giả cấp nhỏ mặc áo vàng ghi tên họ,
Lãnh ra khỏi Trường An, giải đoàn tù ra đi.
Thân bị thương do vũ khí, mặt nhiều vết trầy,
Trong mình có bệnh vẫn phải đi mỗi ngày tới một trạm nghỉ.
Buổi sáng ăn uống không có bàn và chén,
Buổi tối nằm làm tanh hôi giường chiếu.
Chợt thấy sông Trường Giang mà nhớ sông Giao Hà,
Cả bọn thõng tay líu lo hát.
Trong đó có một người tù nói với bọn tù:
“Các bạn không khổ nhiều bằng tôi”.
Bạn tù đi cùng nhân đó hỏi dò,
Muốn nói mà khí uất dâng đầy trong cổ họng.
Tự thuật quê quán vốn ở Lương Nguyên,
Trong niên hiệu Đại Lịch lạc sang đất Phồn.
Từ khi sang đất Phồn đã trải bốn chục năm,
Thân mặc áo da, thắt lưng dây lông.
Chỉ hứa sáng đầu năm mới mặc đồ Hán,
Mặc quần áo chít khăn chỉnh tể mà lệ ngầm rơi.
Thề sẽ trở về cố hương, trong thâm tâm đã có kế hoạch,
Không cho vợ con ở Phồn biết.
Nghĩ thầm may mà còn chút gân cốt tàn,
Chứ để đến già e rằng sẽ không về quê được.
Lính Phồn canh gác nghiêm ngặt đến chim cũng không bay thoát,
Liều chết trốn chạy cũng thoát thân được.
Ngày núp, đêm đi xuyên qua sa mạc lớn,
Mây u ám, không trăng, gió cát dữ dội.
Kinh sợ khi ẩn trong mồ mả cỏ lạnh thưa thớt,
Đêm lén bơi qua sông Hoàng Hà đóng băng mỏng.
Chợt nghe tiếng trống của quân Hán,
Chạy tới bên đường bái lạy nghênh đón.
Lính cưỡi ngựa không hiểu được tiếng Hán ta nói,
Tướng chỉ huy sai trói ta lại như người Phồn
Cho nhập toán tù binh giải tới vùng Giang Nam ẩm thấp,
Chẳng có ai thăm hỏi, giúp đỡ.
Tới mức đó ngửa mặt nén tiếng kêu trời,
Thế là phải chịu đắng cay tới cuối đời.
Giếng làng Lương Nguyên chẳng thấy,
Vợ con bỏ suông trên đất Hồ.
Trong đất Phồn tù túng nhớ đất Hán,
Về Hán bị bắt ép làm tù binh Phồn.
Nếu sớm biết như thế này thì về làm chi,
Hai nơi cùng khổ thà ở một nơi.
Người Nhung bị trói!
Trong bọn người Nhung này ta đau khổ nhất.
Từ xưa nỗi oan này chưa từng có,
Tâm hồn Hán, nói tiếng Hán trong thân xác Thổ Phồn.
Phóng lữ nhạn 放旅雁 • Thả chim nhạn lạc
九江十年冬大雪,
江水生冰樹枝折。
百鳥無食東西飛,
中有旅鴈聲最飢。
雪中啄草冰上宿,
翅冷騰空飛動遲。
江童持網捕將去,
手攜入市生賣之。
我本北人今譴謫,
人鳥雖殊同是客。
見此客鳥傷客人,
贖汝放汝飛入雲。
鴈鴈汝飛向何處?
第一莫飛西北去。
淮西有賊討未平,
百萬甲兵久屯聚。
官軍賊軍相守老,
食盡兵窮將及汝。
健兒飢餓射汝喫,
拔汝翅翎爲箭羽。
Phóng lữ nhạn
Nguyên Hoà thập niên đông đại tuyết,
Giang thuỷ sinh băng thụ chi chiết.
Bách điểu vô thực đông tây phi,
Trung hữu lữ nhạn thanh tối ky.
Tuyết trung trác thảo băng thượng túc,
Sí lãnh đằng không phi động trì.
Giang đồng trì võng bộ thương khứ,
Thủ hoà nhập thị, sinh mại chi.
Ngã bản bắc nhân kim khiển trích,
Nhân điểu tuy thù đồng thị khách.
Kiến thử khách điểu thương khách nhân,
Thục nhữ, phóng nhữ phi nhập vân.
Nhạn! Nhạn! Nhữ phi hướng hà xứ ?
Đệ nhất mạc phi tây bắc khứ!
Hoài Tây hữu tặc thảo vị bình,
Bách vạn giáp binh cửu đồn tụ.
Quan quân, tặc quân, tương thủ lão,
Thực tận bình cùng tương cập nhữ.
Kiện nhi cơ ngã xạ nhữ khiết.
Bạt nhữ sí linh vi tiễn vũ.
Dịch nghĩa
Mùa đông năm Nguyên Hoà thứ mười, mưa tuyết lớn,
Nước sông thành băng, cành cây gẫy lả tả.
Các loài chim không kiếm được ăn, bay khắp đông tây,
Trong đó có con nhạn lạc tiếng kêu nghe rất đói,
Ăn, rỉa cỏ trong tuyết, nằm trên mặt băng.
Lông cánh rét cóng bay lên chậm chạp,
Chú bé ven sông bủa lưới bắt được,
Xách luôn ra chợ bán sống.
Mình vốn người phương bắc bị đày đến đây.
Người và chim tuy khác nhau, song cũng là khách,
Thấy chim khách, người khách động lòng thương,
Chuộc mày, thả cho mày bay lên mây thẳm.
Nhạn ơi! Nhạn! Mày bay về phương nào ?
Thứ nhất chớ bay về tây bắc!
Ở Hoài Tây có giặc dẹp chưa xong
Trăm vạn quân lính đóng mãi ở đó.
Quân triều, quân giặc cầm cự nhau mãi,
Lương cạn, quân mỏi sẽ tính đến mày.
Bọn chiến sĩ đói mèm sẽ bắn mày để ăn thịt,
Sẽ nhổ lông mày để làm cánh tên.
Phóng ngôn kỳ 1 放言其一
朝真暮偽何人辨,
古往今來底事無。
但愛臧生能詐聖,
可知寧子解佯愚。
草螢有燿終非火,
荷露雖團豈是珠。
不取燔柴兼照乘,
可憐光彩亦何殊。
Phóng ngôn kỳ 1
Triêu chân mộ nguỵ hà nhân biện,
Cổ vãng kim lai để sự vô.
Đãn ái Tang sinh năng trá thánh,
Khả tri Ninh tử giải dương ngu.
Thảo huỳnh hữu diệu chung phi hoả,
Hà lộ tuy đoàn khởi thị châu.
Bất thủ phần sài kiêm chiếu thặng,
Khả liên quang thái diệc hà thù.
Dịch nghĩa
Buổi sáng chân chính, buổi chiều giả dối,
Từ xưa tới nay việc này thường có và không ai biện luận được vì sao.
Kẻ yêu chuộng Tang Sinh bái lầm y là thánh,
Người biết Ninh Tử có thể giải thích y giả vờ ngu.
Đom đóm phát ra ánh sáng nhưng rút cuộc không phải là ánh lửa,
Giọt móc trên lá sen tuy tròn há gọi là hạt ngọc.
Không thề lấy ánh lửa đốt củi coi bằng ngọc chiếu thặng,
Thương cho ánh mặt trời cũng chẳng khác gì.
Phóng ngôn kỳ 3 放言其三
贈君一法決狐疑,
不用鑽龜與祝蓍。
試玉要燒三日滿,
辨材須待七年期。
周公恐懼流言日,
王莽謙恭未篡時。
向使當初身便死,
一生真偽復誰知?
Phóng ngôn kỳ 3
Tặng quân nhất pháp quyết hồ nghi,
Bất dụng toàn quy dữ chúc thi.
Thí ngọc yêu thiêu tam nhật mãn,
Biện tài tu đãi thất niên kỳ.
Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,
Vương Mãng khiêm cung vị soán thì.
Hướng sử đương sơ thân tiện tử,
Nhất sinh chân nguỵ phục thuỳ tri?
Phong vũ vãn bạc 風雨晚泊
苦竹林邊蘆葦叢,
停舟一望思無窮。
青苔撲地連春雨,
白浪掀天盡日風。
忽忽百年行欲半,
茫茫萬事坐成空。
此生飄蕩何時定,
一縷鴻毛天地中。
Phong vũ vãn bạc
Khổ trúc lâm biên lô vĩ tùng,
Đình chu nhất vọng tứ vô cùng.
Thanh đài phác địa liên xuân vũ,
Bạch lãng hân thiên tận nhật phong.
Hốt hốt bách niên hành dục bán,
Mang mang vạn sự tọa thành không.
Thử sinh phiêu đãng hà thời định,
Nhất lũ hồng mao thiên địa trung.
Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt 賦得古原草送別
离离原上草,
一歲一枯榮。
野火燒不盡,
春風吹又生。
遠芳侵古道,
晴翠接荒城。
又送王孫去,
萋萋滿別情。
Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt
Ly ly nguyên thượng thảo,
Nhất tuế nhất khô vinh.
Dã hoả thiêu bất tận,
Xuân phong xuy hựu sinh.
Viễn phương xâm cổ đạo,
Tình thuý tiếp hoang thành.
Hựu tống vương tôn khứ,
Thê thê mãn biệt tình.
Dịch nghĩa
Cỏ trên cánh đồng bời bời
Mỗi năm một lần úa một lần tươi
Lửa đồng đốt không bao giờ cháy hết
Khi gió xuân thổi lại sinh sôi nảy nở
Mùi thơm lan xa đến lối thành cũ
Màu biếc tươi thắm kề thành hoang
Lại đưa vương tôn ra đi
Rườm rà chứa chan tình ly biệt
Bạch Cư Dị là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Đọc thơ ông, ta cảm nhận được những ý tưởng sáng tạo cùng một tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo.