Hồng Thanh Quang được nhiều nhà bình luận văn học đánh giá cao bởi độ độc đáo cùng những ý tưởng thơ sâu sắc. Những dòng thơ mang đầy những chiêm nghiệm và cung bậc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa làm cho chúng ta ấn tượng mạnh mẽ. Còn những trang thơ dịch vang danh của anh thì sao?
Tôi không còn được gặp anh, vĩnh viễn
Мы не увидимся с тобой,
А женщина еще не знала;
Бродя по городу со мной,
Тебя живого вспоминала.
Но чем ей горе облегчить,
Когда солдатскою судьбою
Я сам назавтра, может быть,
Сравняюсь где-нибудь с тобою?
И будет женщине другой –
Все повторяется сначала –
Вернувшийся товарищ мой,
Как я, весь вечер лгать устало.
Печальна участь нас, друзей,
Мы все поймем и не осудим
И все-таки о мертвом ей
Напоминать некстати будем.
Ее спасем не мы, а тот,
Кто руки на плечи положит,
Не зная мертвого, придет
И позабыть его поможет.
Dịch
Tôi không còn được gặp anh, vĩnh viễn,
Nhưng điều này người phụ nữ bên tôi
Chưa hề biết, cứ nhắc anh da diết
Ngỡ như anh còn có ở trên đời.
Làm sao đây bù đắp nỗi đau này,
Khi chính tôi cũng là người lính,
Ngày mai trên con đường chiến trận
Có thể rồi cũng ngã xuống như anh.
Và cảnh ngộ trớ trêu buồn tủi
Lại đến cùng người phụ nữ tôi yêu:
Người đồng đội trở về thành phố
Mệt mỏi như tôi phải nói dối quá nhiều.
Bè bạn ơi, số phận ta định thế,
Ta hiểu rồi, ta không thở than chi.
Và dù có khổ tâm đến mấy,
Cũng không báo tin người vĩnh viễn đã ra đi.
Ta không cứu được nàng đâu, hãy để
Ai đó mai sau yêu nàng thật chân thành,
Không quen biết người xưa đã khuất,
Sẽ giúp nàng nguôi đau xót về anh.
Trên đất lạ, trong thành phố lạ
В чужой земле и в городе чужом
Мы наконец живем почти вдвоем,
Без званых и непрошеных гостей,
Без телефона, писем и друзей.
Нам с глазу на глаз можно день прожить
И, слава богу, некому звонить.
Сороконожкой наша жизнь была,
На сорока ногах она ползла.
Как грустно — так куда-нибудь звонок,
Как скучно — мигом гости на порог,
Как ссора — невеселый звон вина,
И легче помириться вполпьяна.
В чужой земле и в городе чужом
Мы наконец живем почти вдвоем.
Как на заре своей, сегодня вновь
Беспомощно идет у нас любовь.
Совсем одна от стула до окна,
Как годовалая, идет она
И смотрим мы, ее отец и мать,
Готовясь за руки ее поймать.
Dịch
Trên đất lạ, trong thành phố lạ,
Ta gần như được sóng đôi cùng nhau,
Không khách khứa, cả quen lẫn biết,
Không bạn bè, điện thoại, không thư.
Ta có thể được một ngày đơn độc,
Thật may vì không phải gọi cho ai.
Đời ta đã như là con rết,
Bò đi trên bốn chục cái chân dài.
Thật buồn – nếu tiếng chuông bỗng réo,
Thật chán vì vừa gọi, khách đông ngay
Như cãi cọ – tiếng rượu không vui vẻ,
Làm lành nhau thật dễ lúc ngà say.
Trên đất lạ, trong thành phố lạ
Ta gần như được sóng đôi cùng nhau.
Tình yêu mình lại bước đi chập chững
Như hôm nao, cái thuở ban đầu.
Một mình nó từ ghế ra cửa sổ
Bước đi như đứa trẻ mới tròn năm.
Và đôi ta, cha và mẹ nó,
Chăm chú nhìn theo, tay đỡ sẵn sàng…
9
Напоминает море — море.
Напоминают горы — горы.
Напоминает горе — горе;
Одно — другое.
Чужого горя не бывает,
Кто это подтвердить боится,-
Наверно, или убивает,
Или готовится в убийцы…
Dịch
Biển luôn gợi nên dáng bể,
Núi luôn gợi lại hình non.
Nỗi đau bao giờ cũng thế
Chẳng thể gợi gì khác hơn.
Không có nỗi đau nào riêng.
Sợ hãi nhận ra điều đó
Chắc chỉ kẻ đang sát nhân
Hoặc định làm cho máu đổ.
Đứa con trai
Был он немолодой, но бравый;
Шел под пули без долгих сборов,
Наводил мосты, переправы,
Ни на шаг от своих саперов;
И погиб под самым Берлином,
На последнем на поле минном,
Не простясь со своей подругой,
Не узнав, что родит ему сына.
И осталась жена в Тамбове.
И осталась в полку саперном
Та, что стала его любовью
В сорок первом, от горя черном;
Та, что думала без загада:
Как там, в будущем, с ней решится?
Но войну всю прошла с ним рядом,
Не пугаясь жизни лишиться…
Ничего от него не хотела,
Ни о чем для себя не просила,
Но, от пуль закрыв своим телом,
Из огня его выносила
И выхаживала ночами,
Не беря с него обещаний
Ни жениться, ни разводиться,
Ни писать для нее завещаний.
И не так уж была красива,
Не приметна женскою статью.
Ну, да, видно, не в этом сила,
Он ее и не видел в платьях,
Больше все в сапогах кирзовых,
С санитарной сумкой, в пилотке,
На дорогах войны грозовых,
Где орудья бьют во всю глотку.
В чем ее красоту увидел?
В том ли, как вела себя смело?
Или в том, как людей жалела?
Или в том, как любить умела?
А что очень его любила,
Жизнь ему отдав без возврата,-
Это так. Что было, то было…
Хотя он не скрыл, что женатый.
Получает жена полковника
Свою пенсию за покойника;
Старший сын работает сам уже,
Даже дочь уже год как замужем…
Но живет еще где-то женщина,
Что звалась фронтовой женой.
Не обещано, не завещано
Ничего только ей одной.
Только ей одной да мальчишке,
Что читает первые книжки,
Что с трудом одет без заплаток
На ее, медсестры, зарплату.
Иногда об отце он слышит,
Что был добрый, храбрый, упрямый.
Но фамилии его не пишет
На тетрадках, купленных мамой.
Он имеет сестру и брата,
Ну, а что ему в том добра-то?
Пусть подарков ему не носят,
Только маму пусть не поносят.
Даже пусть она виновата
Перед кем-то, в чем-то, когда-то,
Но какой ханжа озабочен –
Надавать ребенку пощечин?
Сплетней душу ему не троньте!
Мальчик вправе спокойно знать,
Что отец его пал на фронте
И два раза ранена мать.
Есть над койкой его на коврике
Снимок одерской переправы,
Где с покойным отцом, полковником,
Мама рядом стоит по праву.
Не забывшая, незамужняя,
Никому другому не нужная,
Она молча несет свою муку.
Поцелуй, как встретишь, ей руку!
Dịch
Anh không trẻ nhưng hiên ngang táo tợn,
Giữa mưa bom bão đạn chẳng nao lòng.
Lính công binh, cùng những người đồng đội,
Bao nhịp cầu anh đã bắc qua sông;
Nhưng ở ngay lối vào Berlin,
Anh đã hy sinh trên bài mìn sau cuối,
Không kịp trối trăng với người bạn gái,
Không biết mình sắp có con trai.
Người vợ ở Tambov thành góa bụa.
Ở trung đoàn, cô ý tá công binh –
Tình yêu của anh từ năm bốn mốt
Đầy đau thương – cũng còn lại một mình.
Ôi cô gái đã không suy tính
Số phận mình những tháng ngày sau,
Suốt chiến tranh luôn cùng anh chiến đấu,
Mọi hiểm nghèo chết chóc coi khinh
Ôi cô gái đã không hề đòi hỏi,
Không cầu xin anh một chút gì,
Nhưng đã lấy thân đỡ anh khỏi đạn,
Anh bị thương – bò cõng anh đi,
Những đêm dài săn sóc anh không ngủ,
Không bắt anh hứa hẹn mai này
Sẽ cưới cô, sẽ ly dị vợ
Hay chia cho một nửa gia tài.
Cô chưa chắc đã xinh đẹp lắm,
Trông thân hình chưa chắc đã giai nhân,
Nhưng có lẽ sức mạnh không ở đó!
Anh nào được thây cô mặc váy bao giờ.
Cô chủ yếu chỉ mang quân phục,
Mũ ca lô gọn ghẽ trên đầu
Suốt con đường chiến tranh lửa khói
Ầm ầm vang tiếng đạn bom gào.
Anh thấy cô đẹp nét nào thế nhỉ?
Phải vì cô dũng cảm can trường?
Hay vì cô luôn xót xa người khác?
Hay là vì cô biết yêu thương?
Đúng, cô đã yêu anh vô hạn,
Trao cho anh tất cả cuộc đời.
Đúng thế đấy! Chắc chắn là đúng thế!…
Dù biết anh đã có vợ con rồi.
Vợ góa của đại tá giờ được lĩnh
Món tiền lương chồng để lại cho mình.
Cậu cả đã có nghề tử tế,
Cô út hơn năm nay đã lập gia đình.
Nhưng đâu đó còn một người phụ nữ,
Chị mang danh người vợ chiến trường.
Chỉ mình chị, chỉ riêng mình chị
Đến bây giờ tay trắng vẫn hoàn không.
Chỉ mình chị và đứa con trai nhỏ
Mới vừa cầm những quyển sách đầu tiên
Vất vả lắm mới đủ quần áo vá
Y tá thời nay, lương mẹ được bao tiền
Mẹ thỉnh thoảng kể chú nghe về cha,
Rằng cha hiền, dũng cảm và bướng bỉnh.
Nhưng chú trên bìa vở mẹ mua cho chẳng được
Ghi họ cha ở cạnh tên mình.
Dù chú có anh trai và chị gái
Nhưng điều này giúp chú được gì đâu?
Xin thiên hạ đừng nên tàn nhẫn,
Đừng eo xèo làm mẹ chú buồn đau!
Ngay cả nếu mẹ chẳng may lầm lỗi
Trước ai người, nơi nào đó, ngày xưa,
Xin thiên hạ đừng nên tàn nhẫn
Làm vấy bùn tâm trí trẻ thơ
Đừng đặt điều làm tối đen hồn chú!
Cậu con trai phải được biết rằng
Cha chú đã hy sinh trong chiến đấu
Và trái tim mẹ vỡ hai lần.
Không quên lãng điều chi, không có chồng chính thức,
Không được ai cần đến bây giờ,
Mọi khổ đau mẹ vượt qua lặng lẽ…
Hãy cúi xuống hôn tay, khi các bạn gặp bà!
Nỗi hoài
“Что ты затосковал?”
“Она ушла”.
“Кто?”
“Женщина.
И не вернется,
Не сядет рядом у стола,
Не разольет нам чай, не улыбнется;
Пока не отыщу ее следа –
Ни есть, ни пить спокойно не смогу я…”
“Брось тосковать!
Что за беда?
Поищем –
И найдем другую”.
“Что ты затосковал?”
“Она ушла!”
“Кто?”
“Муза.
Всё сидела рядом.
И вдруг ушла и даже не могла
Предупредить хоть словом или взглядом.
Что ни пишу с тех пор – все бестолочь, вода,
Чернильные расплывшиеся пятна…”
“Брось тосковать!
Что за беда?
Догоним, приведем обратно”.
“Что ты затосковал?”
“Да так…
Вот фотография прибита косо.
Дождь на дворе,
Забыл купить табак,
Обшарил стол – нигде ни папиросы.
Ни день, ни ночь –
Какой-то средний час.
И скучно, и не знаешь, что такое…”
“Ну что ж, тоскуй.
На этот раз
Ты пойман настоящею тоскою…”
Dịch
Sao anh rầu rĩ thế?
-Đi mất rồi.
-Ai vậy?
-Nàng đấy.
Và sẽ không trở lại,
Không ngồi xuống cạnh bên bàn,
Không rót trà cho ta, không mỉm cười rạng rỡ.
Khi còn chưa tìm được nàng,
Tôi sẽ chẳng thể nào ăn ngủ.
-Thôi, đừng thế!
Có gì mà rầu rĩ.
Cứ tìm đi, gặp người khác ngay mà.
-Sao anh rầu rĩ thế?
-Đi mất rồi!
-Ai cơ?
-Cảm hứng!
Vừa tràn trề
Đã mất tăm mất tích,
Chẳng báo trước điềm gì.
Giờ tôi viết nhạt như nước ốc,
Chán chường ghê!
-Thôi đừng thế.
Có gì mà rầu rĩ.
Đuổi theo đi, cảm hứng lại dâng đầy.
-Sao anh rầu rĩ thế?
-Tự dưng thôi.
Ảnh treo lệch.
Ngoài sân mưa rỉ rắc,
Thuốc lá quên mua,
Lục khắp bàn, không còn một điếu .
Ngày chẳng ra ngày, đêm không phải đêm,
Nhập nhà nhập nhoạng.
Cứ buồn buồn chẳng hiểu tại vì sao.
ừ, thế thì rầu rĩ.
Lần này anh
Có lý khi buồn…
Những người vợ
Последний кончился огарок,
И по невидимой черте
Три красных точки трех цигарок
Безмолвно бродят в темноте.
О чем наш разговор солдатский?
О том, что нынче Новый год,
А света нет, и холод адский,
И снег, как каторжный, метет.
Один сказал: «Моя сегодня
Полы помоет, как при мне.
Потом детей, чтоб быть свободней,
Уложит. Сядет в тишине.
Ей сорок лет — мы с ней погодки.
Всплакнет ли, просто ли вздохнет,
Но уж, наверно, рюмкой водки
Меня по-русски помянет…»
Второй сказал: «Уж год с лихвою
С моей война нас развела.
Я, с молодой простясь женою,
Взял клятву, чтоб верна была.
Я клятве верю,— коль не верить,
Как проживешь в таком аду?
Наверно, все глядит на двери,
Все ждет сегодня — вдруг приду…»
А третий лишь вздохнул устало:
Он думал о своей — о той,
Что с лета прошлого молчала
За черной фронтовой чертой…
И двое с ним заговорили,
Чтоб не грустил он, про войну,
Куда их жены отпустили,
Чтобы спасти его жену.
Dịch
Mẩu nến cuối cùng đã lụi
Ba đầu thuốc lá đỏ lừ
Vẽ một vòng tròn vô định
Âm thầm bóng tối âm u.
Lính tráng chuyện trò chi nhỉ?
Năm hết tết đến đây rồi,
Mà tối, mà đêm buốt lạnh,
Tuyết bay mù mịt đất trời.
Người bảo: Vợ tôi đêm nay
Chắc lau sàn như thuở cũ .
Rồi đặt lũ trẻ đi ngủ,
Một mình, rồi sẽ ngồi ngây.
Cô ấy cũng tuổi như tôi,
Bốn mươi. Một mình chắc khóc.
Hay chỉ thở dài. Và chắc
Cạn ly nhắc nhở tên chồng…
Người khác nói: Cả năm ròng
Chiến tranh làm xa vợ trẻ.
Vợ tôi đã thề chung thủy
Hôm nàng đưa tiễn tôi đi.
Lời nàng, tôi tin. Nếu khác,
Sống sao cảnh khốn cùng kia?
Chắc nàng đang trông ra cửa
Nhỡ đâu chồng được may về!
Người thứ ba chỉ thở dài
Mệt mỏi nghĩ về cô vợ
Bặt tin từ hè năm ngoái
Không lời nhắn gửi, không thư…
Để anh khỏi buồn, bè bạn
Chuyện trò về cảnh đao binh,
Về việc cách gì vợ họ
Đi tìm cứu lại vợ anh…
Lòng người Чужая душа
Дурную женщину любил,
А сам хорошим парнем был,
С врагами – не застенчивым,
К друзьям – не переменчивым;
Умел приехать к другу,
Подать в несчастье руку,
Поднять в атаку роту,
Стать грудью в непогоду!
Был и умен, и добр, и смел,
И верен был отчизне,
И одного лишь не умел
В своей короткой жизни:
Взять отодвинуть взглядом
И рассмотреть как следует
Ту, что живет с ним рядом,
Что спит с ним и обедает;
Ту, что с их первой встречи
Была с ним всех короче,
И жизнь его калеча,
И честь его пороча…
А эта, с кем он жил, она –
Могу ручаться смело,-
Что значит слово-то “жена”,
Понятья не имела.
Свои лишь ручки, ноженьки
Любила да жалела,
А больше ничегошеньки
На свете не умела:
Ни сеять, ни пахать, ни жать,
Ни думать, ни детей рожать,
Ни просидеть сиделкою,
Когда он болен, ночь,
Ни самою безделкою
В беде ему помочь.
Как вспомнишь – так в глазах темно,
За жизнь у ней лишь на одно
Умения хватило –
Свести его в могилу!
А где же были мы – друзья?
Тут виноват и ты и я!
Молчали, замечали
Да головой качали:
Мол, вроде неприлично
Касаться жизни личной.
Да так и не коснулись,
Как умер лишь – проснулись!
Dịch
Anh đã yêu người đàn bà tệ hại,
Còn chính anh mới tử tế làm sao.
Với kẻ thù – không hề nhút nhát,
Với bạn bè – luôn có trước có sau.
Anh biết tới đúng lúc cùng đồng đội
Đưa tay ra đỡ giữa gian nan,
Biết dẫn đầu đơn vị xông lên trước,
Trong bão giông vươn ngực xây thành.
Anh thông minh, hiền lành, dũng cảm,
Trung thành nhất mực với non sông,
Chỉ một việc trong cuộc đời ngắn ngủi
Anh đã không biết thực hiện cho xong:
Lùi ra xa một chút cho thỏa đáng
Và nhìn và suy ngẫm nghiêm trang
Về người đang cận kề anh sống,
Ăn cùng mâm và ngủ cùng giường.
Người mà ngay từ lần đầu gặp gỡ
Đã gần anh hơn mọi sự trần gian
Và đã làm khốn khó đời anh,
Làm danh dự anh vấy bẩn.
Người mà anh từng chung sống ấy –
Điều này tôi đảm bảo trăm phần –
Về cái sự thế nào là “vợ”
Chẳng bao giờ một chút lưu tâm.
Chỉ đôi chân và đôi tay yểu điệu
Chị ta yêu và xót xa thôi.
Còn không một việc gì khác nữa
Khiến chị ta để ý trong đời.
Không biết cấy, không biết cầy, không biết gặt,
Không biết nghĩ suy, không biết sinh con,
Không biết ngồi bên túc trực
Khi anh đau ốm đêm trường.
Không biết giúp anh khi anh lâm nạn
Dù chỉ một việc bình thường.
Nhớ lại sự mà thấy hoa cả mắt
Trong đời, chị ta chỉ biết
Làm một việc: đó là
Đưa anh mau vào mộ.
Ta, bè bạn, ta ở đâu lúc đó?
Sai lầm cả cậu và tôi .
Chúng ta đã lặng im và khi biết chuyện
Chỉ khẽ lắc đầu thôi:
Như thể hoàn toàn không lịch sự
Can thiệp vào những chuyện riêng tư.
Và chúng ta đã không hề can thiệp,
Chỉ khi anh ấy mất rồi, mới sực tỉnh ra!
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến quý độc giả những trang thơ hay và đặc sắc nhất của nhà thơ Hồng Thanh Quang. Hy vọng với những thi phẩm này sẽ làm mới bộ sưu tập thơ của các bạn.