La Fontaine là một trong những nhà văn và thi nhân độc đáo của thế kỷ XVII. Ông mượn những đề tài cổ điển, nhưng đã viết lại bằng một cách khác rất đặc sắc ít ai bì kịp. Ông sở hữu một kho tàng thơ lớn và đầy giá trị được bạn đọc yêu thích. Chính cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, gần gũi với người dân thường đã khiến cho thơ văn của ông giàu tính dân gian, giàu chất thơ của cuộc sống và sự tinh tế, sinh động.

Hội đồng chuột

Un Chat, nommé Rodilardus,
Faisait de Rats telle déconfiture
Que l’on n’en voyait presque plus,
Tant il en avait mis dedans la sépulture.
Le peu qu’il en restait, n’osant quitter son trou,
Ne trouvait à manger que le quart de son soû;
Et Rodilard passait, chez la gent misérable,
Non pour un Chat, mais pour un Diable.
Or, un jour qu’au haut et au loin
Le Galand alla chercher femme,
Pendant tout le sabbat qu’il fit avec sa dame,
Le demeurant des Rats tint chapitre en un coin
Sur la nécessité présente.
Dès l’abord, leur Doyen, personne fort prudente,
Opina qu’il fallait, et plus tôt que plus tard,
Attacher un grelot au cou de Rodilard;
Qu’ainsi, quand il irait en guerre,
De sa marche avertis ils s’enfuiraient sous terre;
Qu’il n’y savait que ce moyen.
Chacun fut de l’avis de Monsieur le Doyen;
Chose ne leur parut à tous plus salutaire.
La difficulté fut d’attacher le grelot.
L’un dit: Je n’y vas point, je ne suis pas si sot;
L’autre: Je ne saurais. Si bien que sans rien faire
On se quitta. J’ai maints chapitres vus,
Qui pour néant se sont ainsi tenus:
Chapitres, non de Rats, mais chapitres de moines,
Voire chapitres de chanoines.

Dịch

Một con mèo tên là Trạng Mỡ
Bắt chuột nhiều long lở hầm hang
Mèo đâu dữ dội lạ dường
Để cho đến nỗi sạch quang trong ngoài
Hoạ còn sót một hai chú lỏi
Đố dám thò ra khỏi cửa hang
Chú nào cũng đói họng gang
Trông thấy Trạng Mỡ coi dường yêu tinh
May được buổi tiên sinh chạy gái
Chốn cao xa trên mái nhà người
Chuột thừa được lúc thảnh thơi
Họp nhau bàn việc kim thời nguy nan
Chú chuột già ra bàn ngay trước:
Liệu mau mau trong bước hiểm nghèo
Đem chuông mà buộc cổ mèo
Để cho khi hắn leo trèo tìm ta
Leng keng nghe hiệu là ta chạy
Ai cũng khen mà lạy Cụ Trùm
Duy còn một việc đeo chuông
Nghe như hơi khó tìm phương thi hành
Hỏi lũ chuột thì anh từ cáo
Anh lại rằng: – Đây lão dại gì?
Đã đành nơi chết ai đi
Ngẩn ngơ một lát rồi thì hội tan
Té ra cuộc luận bàn thực hão
Có lạ gì bàn láo xưa nay
Chẳng là việc chuột thế này
Việc dân, việc nước cũng hay bàn xằng
Thơ rằng:
Nghị luận còn dở dang
Triều đình đông nhan nhản
Thi hành lâm cục trung
Bá quan đà tận tán

Đôi bò mộng và chú ếch

Deux taureaux combattaient à qui posséderait
Une génisse avec l’empire.
Une grenouille en soupirait.
« Qu’avez-vous?’ »se mit à lui dire
Quelqu’un du peuple croassant.
« – Eh ! ne voyez-vous pas, dit-elle,
Que la fin de cette querelle
Sera l’exil de l’un ; que l’autre, le chassant,
Le fera renoncer aux campagnes fleuries ?
Il ne régnera plus sur l’herbe des prairies,
Viendra dans nos marais régner sur les roseaux ;
Et nous foulant aux pieds jusques au fond des eaux,
Tantôt l’une, et puis l’autre, il faudra qu’on pâtisse
Du combat qu’a causé Madame la Génisse. »
Les petits ont pâti des sottises de grands.

Dịch

Đôi bò mộng suốt ngày ẩu đả
Để tranh nhau một ả bò tơ
Giành quyền cai trị cõi bờ
Làm cho chú ếch thẫn thờ khôn nguôi
Họ ộp oạp có con gạn hỏi:
“Bạn làm sao” Ếch nói như vầy:
“Chuyện gì sẽ đến mai đây
Khi thằng thắng trận đem đày thằng kia
Buộc phải bỏ đồng quê hoa nở
Hết ngự trên bãi cỏ non xanh
Thằng kia sẽ đến bãi sình
Ngự trên đám sậy chúng mình nương thân
Ngày lại ngày gót chân hắn dẫm
Dìm loài ta xuống tận bùn sâu
Chúng mình còn mãi khổ đau
Vì cuộc ẩu đả giành nhau Bà Bò”
Sợ cũng phải vì bò chiến bại
Sẽ tới vùng ếch nhái trốn nhờ
Bẹp hai chục chú mỗi giờ
Ông lớn có những cái ngu ai tày
Để dân đen vạ lây bức bách
Xưa nay trong sử sách cũng nhiều

Dơi và hai cây

Une Chauve-Souris donna tête baissée
Dans un nid de Belette; et sitôt qu’elle y fut,
L’autre envers les Souris de longtemps courroucée,
Pour la dévorer accourut.
Quoi! vous osez, dit-elle, à mes yeux vous produire,
Après que votre race a tâché de me nuire!
N’êtes-vous pas Souris? Parlez sans fiction.
Oui vous l’êtes, ou bien je ne suis pas Belette.
Pardonnez-moi, dit la Pauvrette,
Ce n’est pas ma profession.
Moi Souris! Des méchants vous ont dit ces nouvelles:
Grâce à l’Auteur de l’univers,
Je suis Oiseau: voyez mes ailes;
Vive la gent qui fend les airs!
Sa raison plut, et sembla bonne.
Elle fait si bien qu’on lui donne
Liberté de se retirer.
Deux jours après, notre étourdie
Aveuglément se va fourrer
Chez une autre Belette aux Oiseaux ennemie.
La voilà derechef en danger de sa vie.
La Dame du logis avec son long museau
S’en allait la croquer en qualité d’Oiseau,
Quand elle protesta qu’on lui faisait outrage:
Moi pour telle passer ! vous n’y regardez pas
Qui fait l’oiseau? C’est le plumage.
Je suis Souris: vivent les Rats;
Jupiter confonde les Chats.
Par cette adroite repartie
Elle sauva deux fois sa vie.
Plusieurs se sont trouvés, qui d’écharpe changeants,
Aux dangers, ainsi qu’elle, ont souvent fait la figue.
Le sage dit, selon les gens:
Vive le Roi! vive la Ligue!

Dịch

Dơi kia bay quáng bay quàng
Chúi đầu rơi tọt vào hang chị Cầy
Cầy này ghét chuột xưa nay
Thoạt trông đã vội chạy ngay đến vồ
“Con này quả thật gan to!
Cả nòi mày tự thuở giờ hại ta
Mày còn mò đến đây à?
Thú đi! Mày có phải là chuột không?
Đích mày là chuột chính dòng
Cũng như tao vốn là tông tộc Cầy!”
Dơi thưa:” Xin lỗi! Tôi đây
Nào đâu phải chuột, ai bày phao vu?
Tôi đây mà bảo chuột ư?
Nhờ ơn tạo hóa nhân từ cao minh
Sinh tôi chim rõ rành rành
Xin trông cặp cánh bên mình đủ thôi
Muôn năm, loài điểu tung trời!”
Lời cung khá vững, dịu thôi đầu Cầy
Nhờ ba tấc lưỡi khéo quay
Dơi kia đã được Cầy này buông tha
Vài hôm sau lại lơ mơ
Vào hang Cầy khác, Dơi ta đâm nhào
Cầy này thù ghét chim sao!
Thế mà Dơi lại mắc vào tai ương
Tưởng là chim rúc vào hang
Cái bà dài mõm đã toan xơi liền
Nhanh mồm Dơi vội van xin:
“Người ta vu khống cho em thưa bà!
Em đâu có phải chim mà!
Chim thì lông vũ, em là lông mao
Lượng trên ngờ vực lẽ nào
Chính em là chuột, trông vào mà coi!
Chúc loài chuột sống muôn đời!
Thiên lôi hãy vật chết toi lũ mèo!”
Thế là Dơi khéo xoay chiều
Hai lần gặp nạn hiểm nghèo đều qua
Lắm anh tùy vận thay cờ
Khôn ngoan xoay chuyển nguy cơ dễ dàng!
Theo vua: “Vạn tuế!” hô vang
Liên minh quay lại, hô tràn: “Muôn năm!”

Chim bị tên bắn 

Mortellement atteint d’une flèche empennée,
Un Oiseau déplorait sa triste destinée,
Et disait, en souffrant un surcroît de douleur :
“Faut-il contribuer à son propre malheur !
Cruels humains ! vous tirez de nos ailes
De quoi faire voler ces machines mortelles.
Mais ne vous moquez point, engeance sans pitié :
Souvent il vous arrive un sort comme le nôtre.
Des enfants de Japet toujours une moitié
Fournira des armes à l’autre.”

Dịch

Chim bị thương nặng
Vì một mũi tên
Mà cánh được gắn
Là mảnh lông chim
Lòng thêm đau quặn
Than thân trách phận:
“Có nên góp phần
Vào điều tai hoạ
Cho cả bản thân?
Loài người ác hiểm
Lông cánh chim đây
Các ông chế biến
Thành cánh tên bay
Để chúng ngày ngày
Làm máy gây chết
Hỡi quân nhẫn tâm
Đùa mà không biết
Số phận loài người
Thường cũng giống hệt
Như chim này thôi”
Có đến một nửa
Con cái Japet
Sẽ cấp vũ khí
Cho một nửa kia

Chó săn và bạn

Une Lice étant sur son terme,
Et ne sachant ou mettre un fardeau si pressant,
Fait si bien qu’à la fin sa Compagne consent
De lui prêter sa hutte, où la Lice s’enferme.
Au bout de quelque temps sa Compagne revient.
La Lice lui demande encore une quinzaine;
Ses petits ne marchaient, disait-elle, qu’à peine.
Pour faire court, elle l’obtient.
Ce second terme échu, l’autre lui redemande
Sa maison, sa chambre, son lit.
La Lice cette fois montre les dents, et dit:
“Je suis prête à sortir avec toute ma bande,
Si vous pouvez nous mettre hors.”
Ses enfants étaient déjà forts.
Ce qu’on donne aux méchants, toujours on le regrette.
Pour tirer d’eux ce qu’on leur prête,
Il faut que l’on en vienne aux coups;
Il faut plaider, il faut combattre.
Laissez-leur prendre un pied chez vous,
Ils en auront bientôt pris quatre.

Dịch

Mụ Chó săn đến ngày sinh đẻ
Con giục ra, biết để vào đâu?
Xở xoay – ai biết cách nào?
Được bà bạn nhượng ít lâu gian nhà
Đến kỳ hẹn bạn ra đòi lại
Chó săn xin hãy đợi đôi tuần
“Các cháu bước chửa vững chân…”
Chung quy khất được mươi lăm đêm ngày
Khi mãn hạn chủ quay lại hỏi
“Nhà, phòng, giường xin hãy trao đây!”
Nhe nanh, mụ Chó lần này
Bảo rằng: “Ta sẽ ra ngay, sẵn sàng
Ta và cả bầu đoàn một lúc
Nếu nhà người đủ sức đuổi ra”
(Bầy con đã khỏe lắm mà!)
Giúp phường độc ác tinh ma
Giúp thì dành đó, rồi ra tiếc dài
Muốn đòi phải đấm phải thoi
Dụng câu pháp lý, vận bài đấu tranh
Một cẳng chúng lọt nhà anh
Bốn chân rồi sẽ tung hoành liền theo!

Đại bàng và bọ vừng

L’Aigle donnait la chasse à maître Jean Lapin,
Qui droit à son terrier s’enfuyait au plus vite.
Le trou de l’Escarbot se rencontre en chemin.
Je laisse à penser si ce gîte
Etait sûr; mais ou mieux? Jean Lapin s’y blottit.
L’Aigle fondant sur lui nonobstant cet asile,
L’Escarbot intercède, et dit:
“Princesse des Oiseaux, il vous est fort facile
D’enlever malgré moi ce pauvre malheureux;
Mais ne me faites pas cet affront, je vous prie;
Et puisque Jean Lapin vous demande la vie,
Donnez-la-lui, de grâce, ou l’ôtez à tous deux:
C’est mon voisin, c’est mon compère. “
L’oiseau de Jupiter, sans répondre un seul mot,
Choque de l’aile l’Escarbot,
L’étourdit, l’oblige à se taire,
Enlève Jean Lapin. L’ Escarbot indigné
Vole au nid de l’oiseau, fracasse, en son absence,
Ses oeufs, ses tendres oeufs, sa plus douce espérance:
Pas un seul ne fut épargné.
L’Aigle étant de retour, et voyant ce ménage,
Remplit le ciel de cris; et pour comble de rage,
Ne sait sur qui venger le tort qu’elle a souffert.
Elle gémit en vain: sa plainte au vent se perd.
Il fallut pour cet an vivre en mère affligée.
L’an suivant, elle mit son nid plus haut.
L’Escarbot prend son temps, fait faire aux oeufs le saut:
La mort de Jean Lapin derechef est vengée.
Ce second deuil fut tel, que l’écho de ces bois
N’en dormit de plus de six mois.
L’Oiseau qui porte Ganymède
Du monarque des Dieux enfin implore l’aide,
Dépose en son giron ses oeufs, et croit qu’en paix
Ils seront dans ce lieu; que, pour ses intérêts,
Jupiter se verra contraint de les défendre:
Hardi qui les irait là prendre.
Aussi ne les y prit-on pas.
Leur ennemi changea de note,
Sur la robe du Dieu fit tomber une crotte:
Le dieu la secouant jeta les oeufs à bas.
Quand l’Aigle sut l’inadvertance,
Elle menaça Jupiter
D’abandonner sa Cour, d’aller vivre au désert,
Avec mainte autre extravagance.
Le pauvre Jupiter se tut:
Devant son tribunal l’Escarbot comparut,
Fit sa plainte, et conta l’affaire.
On fit entendre à l’Aigle enfin qu’elle avait tort.
Mais les deux ennemis ne voulant point d’accord,
Le Monarque des Dieux s’avisa, pour bien faire,
De transporter le temps où l’Aigle fait l’amour
En une autre saison, quand la race Escarbote
Est en quartier d’hiver, et, comme la Marmotte,
Se cache et ne voit point le jour.

Dịch

Thỏ rừng bị đại bàng săn đuổi
Chạy như bay tìm lối về hang
Thấy lỗ bọ vừng giữa đàng
Thỏ thu mình lại sẵn sàng trốn chui
Còn phải xem liệu nơi ẩn ấy
An toàn không, nhưng lấy đâu hơn
Đại bàng lao xuống thỏ rừng
Dù cho hang của bọ vừng tin hin
“Thưa nữ chúa của loài chim”
Bọ vừng lên tiếng van xin giúp người
“Bà bắt thỏ dễ như chơi
Nhưng xin bà chớ để tôi nhục nhằn
Thỏ là bạn cùng làng cùng xóm
Là láng giềng hôm sớm nghĩa tình
Thỏ xin mạng sống, còn mình
Tôi xin tha bạn hoặc đành chết theo”
Đại bàng không thích ỉ eo
Lặng đưa cánh quật một chiêu ngay liền
Bọ vừng chẳng nói thêm gì đặng
Vì toàn thân choáng váng tức thì
Đại bàng cắp thỏ lao đi
Bọ vừng phẫn nộ hướng về phía xa
Bay tới ổ trứng nhà ác điểu
Đập vỡ tan không thiếu quả nào
Đại bàng về, đau đớn sao
Ruột như thắt lại, thét gào thâu đêm
Mất ổ trứng cưng, niềm hy vọng
Còn điên lên ngong ngóng trả thù
Tìm đâu thủ phạm bây giờ
Tiếng rên theo gió mịt mờ hoài công
Sau cả một năm ròng sầu khổ
Đại bàng ta lót ổ cao hơn
Đẻ một mẻ trứng tuyệt trần
Bọ vừng lại diệt như lần vừa qua
Tang này đau gấp ba tang trước
Thêm một phen thỏ được trả thù
Đại bàng gào thét sớm trưa
Suốt trong sáu tháng cơ hồ không ngơi
Lần này mụ chim trời cầu khẩn
Thần Jupiter nhận giúp cưu mang
Bảo vệ lứa trứng an toàn
Giấu kín trong vạt áo choàng ngày đêm
Tưởng như vậy không tên nào dám
Mò tới đây phá đám như xưa
Nhưng kẻ thù đổi nước cờ
Vẩy lên một cục phân dơ áo ngài
Ngài bèn buông tay ngay để giũ
Mẻ trứng này rơi vỡ hết luôn
Đại bàng nghe chuyện thảm thương
Doạ thần là sẽ tìm đường rời xa
Bỏ triều đình bay ra hoang mạc
Miệng gào bao điều khác lố lăng
Jupiter chẳng nói chẳng rằng
Bọ vừng bước tới đàng hoàng khai ra
Và đưa đơn trước toà khiếu nại
Bắt đại bàng nhận lấy lỗi lầm
Nhưng hai đối thủ hằm hằm
Thù kia vốn đã nhiều năm không hoà
Jupiter bèn nghĩ ra một kế:
Mùa làm tình của chị đại bàng
Từ dạo ấy được chuyển sang
Thời gian đối thù còn đang giấc dài
Mùa bọ vừng đêm ngày chui rúc
Lo ngủ đông, thấy chút gì đâu
Như con mácmốt giấc sâu

La Fontaine được coi là một tác giả viết nhiều thể văn khác nhau, kể cả văn chương tôn giáo, nhưng người đời sau chỉ biết đến ông qua những thơ ngụ ngôn và những truyện ngắn. Với những ngôn từ đầy táo bạo, những trang thơ của ông thu hút sự quan tâm lớn từ độc giả. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Tagged: