Nhắc đến gương mặt nổi bật nhất của Pháp thì ta không quên nghĩ đến nhà thơ La Fontaine. Ông là một nhà thơ đa tài, ngoài sáng tác thơ, ông còn là một nhà tiểu thuyết vĩ đại được giới trẻ yêu thích mặc dù bị cấm bởi những ngôn từ đầy phóng túng. Ông có nhiều thi phẩm nổi tiếng, chúng đã trở thành điển hình cho các tính cách của nhà thơ. Nối tiếp phần 3 chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận những thi phẩm nổi bật nhất của thi sĩ này nhé!
Sư tử và muỗi mắt
Va-t’en, chétif Insecte, excrément de la terre
C’est en ces mots que le Lion
Parlait un jour au Moucheron.
L’autre lui déclara la guerre.
Penses-tu, lui dit-il, que ton titre de Roi
Me fasse peur ni me soucie?
Un Bœuf est plus puissant que toi,
Je le mène à ma fantaisie.
À peine il achevait ces mots
Que lui-même il sonna la charge,
Fut le Trompette et le Héros.
Dans l’abord il se met au large,
Puis prend son temps, fond sur le cou
Du Lion, qu’il rend presque fou.
Le Quadrupède écume, et son œil étincelle;
Il rugit, on se cache, on tremble à l’environ;
Et cette alarme universelle
Est l’ouvrage d’un Moucheron.
Un avorton de Mouche en cent lieux le harcelle,
Tantôt pique l’échine, et tantôt le museau,
Tantôt entre au fond du naseau.
La rage alors se trouve à son faîte montée.
L’invisible ennemi triomphe, et rit de voir
Qu’il n’est griffe ni dent en la bête irritée
Qui de la mettre en sang ne fasse son devoir.
Le malheureux Lion se déchire lui-même,
Fait résonner sa queue à l’entour de ses flancs,
Bat l’air qui n’en peut mais, et sa fureur extrême
Le fatigue, l’abat; le voilà sur les dents.
L’Insecte du combat se retire avec gloire:
Comme il sonna la charge, il sonne la victoire,
Va partout l’annoncer, et rencontre en chemin
L’embuscade d’une Araignée:
Il y rencontre aussi sa fin.
Quelle chose par là nous peut être enseignée?
J’en vois deux, dont l’une est qu’entre nos ennemis
Les plus à craindre sont souvent les plus petits;
L’autre, qu’aux grands périls tel a pu se soustraire,
Qui périt pour la moindre affaire.
Dịch
Sư tử một hôm chửi Muỗi mắt:
– Cút đi! Đồ bọ oắt thối tha!
Tức thì Muỗi mắt nhà ta
Cùng Sư tuyên chiến: “A! A! Thằng này!
Mày chớ tưởng mày là vua chúa
Thì tao đây khiếp sợ, nể vì!
Bò to gấp mấy mày kia
Mà tao cũng cứ dắt đi tùy lòng!”
Nói vừa dứt, Muỗi xông ra trận
Rúc còi lên quyết tấn công liền
Vừa lính chiến, vừa lính kèn
Thọat tiên Muỗi phóng cao lên lấy đà
Rồi dựa thế, Muỗi sà xuống gáy
Đốt cho Sư giẫy nẩy phát điên
Mép sùi, mắt quắc, gầm lên
Cả miền trốn chạy, cả miền sợ run
Cơn khủng khiếp bao trùm thế giới
Chính kỳ công của Muỗi tí hon
Gan liền con Muỗi oắt con
Nhè Sư đánh dập đánh dồn trăm nơi
Khi đốt gáy, khi chơi đúng mõm
Nhè mũi Sư chui lỏn tận cùng
Khiến cho Sư tử phát khùng
Cơn điên đã nổi đến cung tam bành
Kẻ địch thủ vô hình thắng thế
Được thể càng đắc ý cười to
Cười nanh, cười vuốt Sư rồ
Vật mình bật máu nên trò gì đâu!
Sư tử khốn cào đầu, cấu đít
Đuôi vù vù quất tít quanh hông
Đập không khí quẫy lung tung
Càng vùng càng vẫy càng không nước gì!
Cơn lục tặc cực kỳ hung dữ
Càng khiến cho Sư tử nhừ xương
Sư ta mệt lử, nằm đườn
Muỗi ta bãi chiến, vinh quang ra về
Kèn xung kích trước nghe vang dội
Khúc khải hoàn giờ lại dội vang
Loan tin chiến thắng bốn phương
Nửa đường lưới nhện lại vương vào tròng
Thế là đời Muỗi cũng tong
Chuyện này ngụ ý gì không?
Theo tôi, bài học ngụ trong hai điều:
Một là bé hạt tiêu địch thủ
Thường vẫn là đáng sợ hơn to
Hai là không chết biển hồ
Lại hay chết đuối lơ ngơ ao tù
Lừa chở bọt biển và lừa chở muối
Un Anier, son Sceptre à la main,
Menait, en Empereur Romain,
Deux Coursiers à longues oreilles.
L’un, d’éponges chargé, marchait comme un Courrier;
Et l’autre, se faisant prier,
Portait, comme on dit, les bouteilles:
Sa charge était de sel. Nos gaillards pèlerins,
Par monts, par vaux, et par chemins,
Au gué d’une rivière à la fin arrivèrent,
Et fort empêchés se trouvèrent.
L’Anier, qui tous les jours traversait ce gué-là,
Sur l’Ane à l’éponge monta,
Chassant devant lui l’autre bête,
Qui voulant en faire à sa tête,
Dans un trou se précipita,
Revint sur l’eau, puis échappa;
Car au bout de quelques nagées,
Tout son sel se fondit si bien
Que le Baudet ne sentit rien
Sur ses épaules soulagées.
Camarade Epongier prit exemple sur lui,
Comme un Mouton qui va dessus la foi d’autrui.
Voilà mon Ane à l’eau ; jusqu’au col il se plonge,
Lui, le Conducteur et l’Eponge.
Tous trois burent d’autant: l’Anier et le Grison
Firent à l’éponge raison.
Celle-ci devint si pesante,
Et de tant d’eau s’emplit d’abord,
Que l’Ane succombant ne put gagner le bord.
L’Anier l’embrassait, dans l’attente
D’une prompte et certaine mort.
Quelqu’un vint au secours: qui ce fut, il n’importe;
C’est assez qu’on ait vu par là qu’il ne faut point
Agir chacun de même sorte.
J’en voulais venir à ce point.
Dịch
Tay cầm trượng “coi lừa” một gã
Nhìn tựa vua La Mã oai hùng
Dài tai, hai thú đi cùng
Con mang bọt biển ung dung nhẹ nhàng
Con chở muối lần đàng dè dặt
Như chở ve, thấy thật nặng nề
Bộ ba du khách luôn kề
Băng ngàn, vượt núi, lối đi mọi ngày
Lúc thấm mệt thì đây quãng lội
Gã coi lừa lại hối tiến lên
Bắt lừa tải muối xung tiên
Chẳng may sa hố muối liền tan luôn
Lừa bọt biển học khôn mà dại
Cũng bước theo xuống đại hố này
Nước vô bọt biển uống đầy
Khiến lừa và cả ông thầy bị nguy
Không lên được, nước thì đến cổ
Chết đến nơi cả chủ lẫn lừa
Quáng mù bắt chước ngu chưa!
Con cừu gương cũ bây giờ phải soi
Sư tử và chuột
Il faut, autant qu’on peut, obliger tout le monde:
On a souvent besoin d’un plus petit que soi.
De cette vérité deux Fables feront foi,
Tant la chose en preuves abonde.
Entre les pattes d’un Lion
Un Rat sortit de terre assez à l’étourdie.
Le Roi des animaux, en cette occasion,
Montra ce qu’il était, et lui donna la vie.
Ce bienfait ne fut pas perdu.
Quelqu’un aurait-il jamais cru
Qu’un Lion d’un Rat eût affaire?
Cependant il advint qu’au sortir des forêts
Ce Lion fut pris dans des rets,
Dont ses rugissements ne le purent défaire.
Sire Rat accourut, et fit tant par ses dents
Qu’une maille rongée emporta tout l’ouvrage.
Patience et longueur de temps
Font plus que force ni que rage.
Dịch
Với mọi người vui lòng giúp đỡ
Nhiều khi cần kẻ nhỏ hơn ta
Ngụ ngôn đôi chuyện nêu qua
Còn bao sự việc thật là đáng tin
Chúa sơn lâm có Sư tử nọ
Chuột lơ ngơ vừa ló ra ngoài
Nhảy vào chân chúa, chao ôi!
Bao dong lượng cả, may đời Chuột con
Ơn trời bể Chuột còn ghi nhớ
Có ai ngờ chúa lỡ sa cơ
Lọt trong tấm lưới bất ngờ
Chúa gầm, chúa rống chỉ chờ chết thôi
Chuột chạy vội đến nơi nguy hiểm
Dùng hàm răng gậm nhấm lưới dày
Một mắt đứt kéo cả dây
Thời giờ không tiếc lại dày kiên tâm
Khỏe gân, cuồng nhiệt sao bằng
Bồ câu và kiến
L’autre exemple est tiré d’animaux plus petits.
Le long d’un clair ruisseau buvait une Colombe,
Quand sur l’eau se penchant une Fourmi y tombe.
Et dans cet océan l’on eût vu la Fourmi
S’efforcer, mais en vain, de regagner la rive.
La Colombe aussitôt usa de charité:
Un brin d’herbe dans l’eau par elle étant jeté,
Ce fut un promontoire où la Fourmi arrive.
Elle se sauve; et là-dessus
Passe un certain Croquant qui marchait les pieds nus.
Ce Croquant, par hasard, avait une arbalète.
Dès qu’il voit l’Oiseau de Vénus
Il le croit en son pot, et déjà lui fait fête.
Tandis qu’à le tuer mon Villageois s’apprête,
La Fourmi le pique au talon.
Le Vilain retourne la tête:
La Colombe l’entend, part, et tire de long.
Le soupé du Croquant avec elle s’envole:
Point de Pigeon pour une obole.
Dịch
Dòng suối trong, Bồ câu giải khát
Kiến rơi vào, làn nước cuốn đi
Kiến bơi, Kiến quậy ích gì?
Mênh mông biển cả dễ chi vào bờ?
Bồ câu liền tỏ ra phúc đức
Cọng cỏ khô chim bứt thả theo
Cỏ như doi đất, Kiến leo
Từ trong tai biến hiểm nghèo vượt ra
Vừa lúc ấy chợt qua nơi đó
Một anh chàng bần khổ, chân không
Tình cờ tay lại xách cung
Thấy chim chắc mẩm miếng ngon vào nồi
Anh nhà quê nhắm rồi, sắp bắn
Kiến đốt ngay gót hắn một mồi
Hắn quay đầu lại tức thời
Bồ câu nghe động, một thôi bay vèo
Cùng chim tiệc cũng bay theo
Chẳng còn lấy tí tị teo quệt mồm
Thỏ và lũ ếch
Un Lièvre en son gîte songeait
(Car que faire en un gîte, à moins que l’on ne songe?);
Dans un profond ennui ce Lièvre se plongeait:
Cet animal est triste, et la crainte le ronge.
“Les gens de naturel peureux
Sont, disait-il, bien malheureux.
Ils ne sauraient manger morceau qui leur profite;
Jamais un plaisir pur; toujours assauts divers.
Voilà comme je vis: cette crainte maudite
M’empêche de dormir, sinon les yeux ouverts.
Corrigez-vous, dira quelque sage cervelle.
Et la peur se corrige-t-elle?
Je crois même qu’en bonne foi
Les hommes ont peur comme moi.”
Ainsi raisonnait notre Lièvre,
Et cependant faisait le guet.
Il était douteux, inquiet:
Un souffle, une ombre, un rien, tout lui donnait la fièvre.
Le mélancolique animal,
En rêvant à cette matière,
Entend un léger bruit: ce lui fut un signal
Pour s’enfuir devers sa tanière.
Il s’en alla passer sur le bord d’un étang.
Grenouilles aussitôt de sauter dans les ondes;
Grenouilles de rentrer en leurs grottes profondes.
“Oh! dit-il, j’en fais faire autant
Qu’on m’en fait faire! Ma présence
Effraie aussi les gens! je mets l’alarme au camp!
Et d’où me vient cette vaillance?
Comment? Des animaux qui tremblent devant moi!
Je suis donc un foudre de guerre!
Il n’est, je le vois bien, si poltron sur la terre
Qui ne puisse trouver un plus poltron que soi.”
Dịch
Con thỏ rừng nằm nơi núp ẩn
Nó suy tư chìm đắm u buồn
Sợ lo giảm sút tinh thần
Những người nhút nhát thập phần đáng thương
Ăn uống cũng phập phồng để ý
Khắp tứ bề e bị tấn công
Thú vui toàn vẹn tất không
Cái đời tôi sống vô cùng khổ thân
Sự sợ hãi gây nên mất ngủ
Suốt ngày đêm đồng tử láo liên
Người khôn họ bảo tôi rằng
Tánh kia hãy sửa, anh đừng giữ chi
Tánh nhút nhát bỏ đi đuợc hả?
Tôi nghĩ người cũng sợ như tôi
Thỏ ta suy luận bồi hồi
Canh chừng mọi thứ nhỏ nhoi bên mình
Bỗng nghe tiếng ở gần động nhẹ
Nó vội vàng chạy lẹ về hang
Bôn qua ao nhỏ bên làng
Lũ ếch thấy động vội vàng rút lui
Con xuống nước, con chui vào lỗ
Thỏ rừng ta tự nhủ: “Lạ thay!
Người làm tôi chạy như bay
Tôi làm kẻ khác chạy dài thấy chưa?
Tôi xuất hiện làm lo kẻ khác
Cả trại này nhớn nhác vì tôi
Tại sao tôi lại có oai?
Sao con vật khác gặp tôi rụng rời?
Vậy hung tướng là tôi đích thực
Mọi người đều nhút nhát như nhau
Dù mình nhút nhát đến đâu
Kẻ nhát hơn nữa đàng sau thiếu gì”
Gà trống và hồ ly
Sur la branche d’un arbre était en sentinelle
Un vieux Coq adroit et matois.
Frère, dit un Renard adoucissant sa voix,
Nous ne sommes plus en querelle:
Paix générale cette fois.
Je viens te l’annoncer; descends que je t’embrasse;
Ne me retarde point, de grâce:
Je dois faire aujourd’hui vingt postes sans manquer.
Les tiens et toi pouvez vaquer,
Sans nulle crainte à vos affaires:
Nous vous y servirons en frères.
Faites-en les feux dès ce soir,
Et cependant, viens recevoir
Le baiser d’amour fraternelle.
Ami, reprit le Coq, je ne pouvais jamais
Apprendre une plus douce et meilleure nouvelle
Que celle
De cette paix;
Et ce m’est une double joie
De la tenir de toi. Je vois deux Lévriers,
Qui, je m’assure, sont courriers
Que pour ce sujet on envoie.
Ils vont vite, et seront dans un moment à nous.
Je descends: nous pourrons nous entre-baiser tous.
Adieu, dit le Renard, ma traite est longue à faire,
Nous nous réjouirons du succès de l’affaire
Une autre fois. Le Galand aussitôt
Tire ses grègues, gagne au haut,
Mal content de son stratagème;
Et notre vieux Coq en soi-même
Se mit à rire de sa peur
Car c’est double plaisir de tromper le trompeur.
Dịch
Trên cành cây con gà trống đậu
Đã khôn ngoan lại láu việc đời
Hồ ly đến ngọt mấy lời:
Đôi ta hết giận, tới thời hòa an
Nay trong khắp thế gian thân ái
Tình anh em tôi lại thưa anh
Xuống đây hôn cái tỏ tình
Trăm nơi còn phải chạy nhanh mới cùng
Rầy mặc sức vẫy vùng đi lại
Tôi với anh hết hại lẫn nhau
Từ đây anh chớ lo âu
Khi nào có việc muốn cầu đến em
Gọi một tiếng ngày đêm cũng lại
Xuống đây hôn gọi ngãi đồng-bào
Gà rằng: – Mầng rỡ xiết bao!
Tin này biết lấy cách nào tỏ vui?
Lời anh nói thì tôi thêm trọng
Kìa ngó xa thấy bóng chó săn
Hai anh đương chạy tới gần
Ý chừng cũng một tin thân ái này
Đợi tôi đó xuống ngay lập tức
Để bốn ta cùng được hôn nhau…
Hồ ly nghe chửa dứt câu
Vội vàng một mạch cắm đầu chạy nhanh
Thôi anh nghỉ để dành khi khác
Kẻo em còn chạy các nơi xa
Nói rồi cẳng bốn chân ba
Nghĩ mưu không đắt, Hồ ta giận mình
Gà thấy hắn thất kinh đắc ý:
Lừa thằng gian thích chí dường bao!
Quạ bắt chước đại bàng
L’Oiseau de Jupiter enlevant un Mouton,
Un Corbeau, témoin de l’affaire,
Et plus faible de reins, mais non pas moins glouton,
En voulut sur l’heure autant faire.
Il tourne à l’entour du troupeau,
Marque entre cent Moutons le plus gras, le plus beau,
Un vrai Mouton de sacrifice
On l’avait réservé pour la bouche des Dieux.
Gaillard Corbeau disait, en le couvant des yeux
Je ne sais qui fut ta nourrice;
Mais ton corps me paraît en merveilleux état
Tu me serviras de pâture
Sur l’animal bêlant à ces mots il s’abat.
La moutonnière créature
Pesait plus qu’un fromag; outre que sa toison
Etait d’une épaisseur extrême,
Et mêlée à peu près de la même façon
Que la barbe de Polyphème.
Elle empêtra si bien les serres du Corbeau,
Que le pauvre Animal ne put faire retraite.
Le Berger vient, le prend, l’encage bien et beau
Le donne à ses enfants pour servir d’amusette.
Il faut se mesurer; la conséquence est nette
Mal prend aux volereaux de faire les voleurs.
L’exemple est un dangereux leurre
Tous les mangeurs de gens ne sont pas grands seigneurs;
Où la Guêpe a passé, le Moucheron demeure.
Dịch
Thấy đại bàng quắp con cừu sống
Quạ yếu hèn nhưng cũng háu ăn
Lập tức chàng muốn đi săn
Lượn vòng nhiều lượt quanh đàn trăm con
Thấy một chú béo tròn nhất hội
Thêm dáng hình xiết nỗi đẹp xinh
Hẳn đây là vật hiến sinh
Quạ ngắm nó, nói một mình như sau:
“Ai cho mày bú, tao không biết
Nhưng tấm thân mày thật tuyệt vời
Vậy là trúng mánh thực rồi
Quạ này mà đã ăn thời ra ăn”
Dứt lời nhằm mồi săn sà xuống
Toàn thân cừu lông cuộn rất sai
Cừu nặng hơn miếng phô mai
Cho nên vuốt quạ cào hoài không xong
Móng lại mắc vào lông nữa chứ
Tiến hay lui chết dở cả rồi
Người chăn cừu đến tận nơi
Biến chàng quạ thành đồ chơi nhi đồng
Bằng cách bắt lấy bỏ lồng
Hậu quả rõ, liệu chừng lượng sức
Rạch túi sao khoét được tường người
Mẹo lừa nguy hiểm lắm thôi
Ăn người không phải là nòi đại phu
Vò vẽ ra thoát nơi mô
Y rằng ruồi nhặng dính vô đó liền
Con công và nữ thần
Le Paon se plaignait à Junon :
« Déesse, disait-il, ce n’est pas sans raison
Que je me plains, que je murmure ;
Le chant dont vous m’avez fait don
Déplaît à toute la Nature :
Au lieu qu’un Rossignol, chétive créature,
Forme des sons aussi doux qu’éclatants,
Est lui seul l’honneur du Printemps. »
Junon répondit en colère :
« Oiseau jaloux, et qui devrais te taire,
Est-ce à toi d’envier la voix du Rossignol ?
Toi que l’on voit porter à l’entour de ton col
Un arc-en-ciel nué de cent sortes de soies ;
Qui te panades, qui déploies
Une si riche queue, et qui semble à nos yeux
La Boutique d’un Lapidaire.
Est-il quelque Oiseau sous les Cieux
Plus que toi capable de plaire ?
Tout Animal n’a pas toutes propriétés.
Nous vous avons donné diverses qualités :
Les uns ont la grandeur et la force en partage ;
Le Faucon est léger, l’Aigle plein de courage,
Le Corbeau sert pour le présage,
La Corneille avertit des malheurs à venir :
Tous sont contents de leur ramage.
Cesse donc de te plaindre, ou bien pour te punir
Dịch
Công kia than với Nữ thần:
Lòng con thấy khổ muôn phần, Người ơi!
Giọng ca con hát mỗi lời
Thiên nhiên khiếp sợ, mọi người cười chê.
Sơn ca cất tiếng, Xuân về;
Du dương, thánh thót, đê mê tuyệt trần,
Vinh dự nhất của mùa Xuân,
Đất trời bừng dậy, nhân quần khen hay
Nữ thần nổi giận, phán ngay:
Tham lam, đố kỵ! Loại này khó tha.
Phải mi muốn giọng Sơn ca?
Vậy mi hãy trả lại ta chiếc vòng,
Bộ đuôi bảy sắc cầu vồng
Như ngàn đôi mắt mênh mông đất trời
Long lanh dáng dấp tuyệt vời
Sắc màu ngọc quí ngời ngời ánh sao
Mi hãy nhìn trước, trông sau
Xem đời ai có màu như mi?
Đại bàng dũng cảm ai bì,
Chim cắt vun vút ai thì nhanh hơn,
Quạ kia chỉ báo tin buồn,
Chích choè vui vẻ, luôn luôn tin mừng.
Mỗi loài đều thấy ung dung
Phẩm chất có được tưng bừng lời ca.
Làm cho thế mạnh thăng hoa
Muôn loài hoà hợp mới là niềm vui.
Đừng đố kỵ nữa, người ơi!
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến quý độc giả những tuyệt phẩm vang danh nhất của nhà thơ La Fontaine. Qua đó, chúng tôi tin rằng đã giúp được các bạn nhận ra được những ý nghĩa cũng như phong cách sáng tác thơ tuyệt vời của nhà thơ Pháp này!