Những trang thơ đặc sắc giàu ý nghĩa của La Fontaine đã làm cho tên tuổi của ông đến gần hơn với những bạn đọc yêu thơ trên thế giới. Với những ý nghĩa sâu sắc, những vần thơ của ông không khỏi khiến bạn đọc phải suy ngẫm nhiều về cuộc đời. Ông luôn bày tỏ cảm xúc xót thương của mình cho những số phận bất hạnh và nghèo khó. Bởi vậy, những trang thơ của ông luôn được trân trọng bởi chất nhân đạo sâu sắc. Cùng nhau đón xem để cảm nhận hết những tinh túy trong thơ ông nhé!
Tiều phu và Kim tinh
Un Bûcheron perdit son gagne-pain,
C’est sa cognée ; et la cherchant en vain,
Ce fut pitié là-dessus de l’entendre.
Il n’avait pas des outils à revendre.
Sur celui-ci roulait tout son avoir.
Ne sachant donc où mettre son espoir,
Sa face était de pleurs toute baignée.
O ma cognée ! ô ma pauvre cognée !
S’écriait-il, Jupiter, rends-la-moi;
Je tiendrai l’être encore un coup de toi. (1)
Sa plainte fut de l’Olympe entendue.
Mercure vient. Elle n’est pas perdue,
Lui dit ce Dieu, la connaîtras-tu bien?
Je crois l’avoir près d’ici rencontrée.
Lors une d’or à l’homme étant montrée,
Il répondit : Je n’y demande rien.
Une d’argent succède à la première,
Il la refuse. Enfin une de bois:
Voilà, dit-il, la mienne cette fois ;
Je suis content si j’ai cette dernière.
Tu les auras, dit le Dieu, toutes trois.
Ta bonne foi sera récompensée.
En ce cas-là je les prendrai, dit-il.
L’Histoire en est aussitôt dispersée ;
Et Boquillons de perdre leur outil,
Et de crier pour se le faire rendre.
Le Roi des Dieux ne sait auquel entendre.
Son fils Mercure aux criards vient encor:
A chacun d’eux il en montre une d’or.
Chacun eût cru passer pour une bête
De ne pas dire aussitôt : La voilà !
Mercure, au lieu de donner celle-là,
Leur en décharge un grand coup sur la tête.
Dịch
Tiều phu mất kế sinh nhai
Ấy là chiếc búa tìm hoài không ra
Nghe than mà những xót xa
Phải đâu có bảy, có ba mà hòng?
Gia tài chỉ thế, đi tong
Còn chi nỗi ước niềm mong mà cầu?
Mặt đẫm lệ, miệng kêu gào:
“Buá ơi! Búa hỡi! Làm sao hở Trời?
Thiên vương ôi! Trả búa tôi!
Phải chăng đòn hiểm ông chơi kẻ này?”
Thiên đình thấy đắng cay anh kể
Phái Kim tinh giáng thế hỏi thăm:
“Búa anh, anh nhận không lầm?
Có khi không mất mà nằm đâu đây…”
Tiều phu nhìn theo tay thần, thấy
Một búa vàng. Liền đấy trình thưa:
“Búa này tôi thật không ưa”
Tiếp theo búa bạc. một vừa hiện ra
Lại từ chối… Thần đưa búa gỗ
“Của tôi đây – Người thợ reo vang
Được lại nó, tôi hân hoan
Ta cho cả gỗ, bạc, vàng bộ ba
Thưởng ngươi lòng dạ thật thà
Thế thì tôi nhận và đa tạ Thần!”
Chuyện mất búa lan dần quanh quất
Thì khắp nơi người mất búa, rìu
Đầy trời dậy tiếng kêu rên
Thiên vương khó rõ đâu điều thị phi
Kim tinh lại cưỡi mây giáng thế
Gặp các anh mất búa van la
Búa vàng từng cái đưa ra
Mỗi anh khôn lỏi:” Búa nhà tôi đây”
Chi đều…Thần chẳng rẫy ai
Mỗi anh một nhát búa quai vào đầu
Nồi đất và nồi đồng
Le Pot de fer proposa
Au Pot de terre un voyage.
Celui-ci s’en excusa,
Disant qu’il ferait que sage
De garder le coin du feu:
Car il lui fallait si peu,
Si peu, que la moindre chose
De son débris serait cause.
Il n’en reviendrait morceau.
Pour vous, dit-il, dont la peau
Est plus dure que la mienne,
Je ne vois rien qui vous tienne.
Nous vous mettrons à couvert,
Repartit le Pot de fer.
Si quelque matière dure
Vous menace d’aventure,
Entre deux je passerai,
Et du coup vous sauverai.
Cette offre le persuade.
Pot de fer son camarade
Se met droit à ses côtés.
Mes gens s’en vont à trois pieds,
Clopin-clopant comme ils peuvent,
L’un contre l’autre jetés
Au moindre hoquet qu’ils treuvent.
Le Pot de terre en souffre; il n’eut pas fait cent pas
Que par son compagnon il fut mis en éclats,
Sans qu’il eût lieu de se plaindre.
Ne nous associons qu’avecque nos égaux.
Ou bien il nous faudra craindre
Le destin d’un de ces Pots.
Dịch
Nồi đồng nọ rủ anh nồi đất
Cùng nhau đi du lịch một phen
Thoắt nghe nồi đất chối liền:
Cứ bên bếp núc chẳng phiền… lại khôn
Thân tôi vốn vừa giòn vừa mảnh
Động vào dù chẳng mạnh cũng tong
Giữ thân nguyên vẹn khó lòng
Có đâu da sắt xương đồng như anh!
Anh thì bước thênh thênh ai cản
Nào có lo sứt trán trầy da
Trăm điều che chở có ta
(Nồi đồng vội đáp tỏ ra chí tình)
Rồi có gặp tình hình bất trắc
Đụng phải đồ như sắt như đanh
Thân ta đây vững như thành
Chen vào đem hết sức mình đỡ nhau
Lời phân giải đuôi đầu cặn kẽ
Nồi đất nghe yên chí cùng đi
Ba chân khập khiễng cặp kè
Gập ghềnh lại đụng, gồ ghề lại va
Nồi đất phải xuýt xoa chịu tuốt
Chưa bước xong trăm bước đồng hành
Bị bạn va vỡ tan tành
Thiệt đời nồi đất sự tình khôn kêu!
Ngẫm thế sự muốn điều bầu bạn
Đồng đẳng và bình đẳng mới nên
Chớ như nồi ấy mà phiền
Con cá nhỏ và người đánh cá
Petit poisson deviendra grand,
Pourvu que Dieu lui prête vie.
Mais le lâcher en attendant,
Je tiens pour moi que c’est folie ;
Car de le rattraper il n’est pas trop certain.
Un Carpeau qui n’était encore que fretin
Fut pris par un Pêcheur au bord d’une rivière.
Tout fait nombre, dit l’homme en voyant son butin ;
Voilà commencement de chère et de festin :
Mettons-le en notre gibecière.
Le pauvre Carpillon lui dit en sa manière :
Que ferez-vous de moi ? je ne saurais fournir
Au plus qu’une demi-bouchée ;
Laissez-moi Carpe devenir :
Je serai par vous repêchée.
Quelque gros Partisan m’achètera bien cher,
Au lieu qu’il vous en faut chercher
Peut-être encor cent de ma taille
Pour faire un plat. Quel plat ? croyez-moi ; rien qui vaille.
Rien qui vaille ? Eh bien soit, repartit le Pêcheur ;
Poisson, mon bel ami, qui faites le Prêcheur,
Vous irez dans la poêle ; et vous avez beau dire,
Dès ce soir on vous fera frire.
Un tien vaut, ce dit-on, mieux que deux tu l’auras :
L’un est sûr, l’autre ne l’est pas.
Dịch
Miễn là cá sống dưới hồ
Cỏn con cũng có ngày to kếch xù
Nhưng mà cá đã cắn câu
Thả ra tôi nghĩ còn ngu nào tầy
Mỗi chốc câu lại được ngay
Cá chép nọ lúc ngày còn nhỏ
Mắc lưỡi câu anh nọ bên sông
Người rằng: Thôi cũng là xong
Chẳng chi cũng miếng ở trong đĩa đầy
Sao bằng ta bỏ ngay vào giỏ
Cá chép con lại nỏ mồm kêu:
Thân tôi phỏng được bao nhiêu
Chẳng qua nửa miếng là nhiều chứ chi
Xin ông đợi đến khi tôi lớn
Tôi lại đây để đón ông câu
Đắt tiền cũng có người thầu
Chẳng hơn cá oắt phải câu hàng nghìn
Mà hồ dễ đã nên một đĩa
Ăn chua mồm thấm thía vào đâu
Người rằng: Dẫu chẳng thấm đâu
Hỡi anh cá oắt ra mầu khôn ngoan
Thôi anh hãy khoan khoan lời tán
Bữa chiều nay tạm rán ăn chơi
Gà chuồng ai thả đuổi chơi
Biết đâu cá nước chim trời mà tin
Con cáo cộc đuôi
Un vieux renard, mais des plus fins,
Grand croqueur de poulets, grand preneur de lapins,
Sentant son renard d’une lieue,
Fut enfin au piège attrapé.
Par grand hasard en étant échappé,
Non pas franc, car pour gage il y laissa sa queue;
S’étant, dis-je, sauvé sans queue, et tout honteux,
Pour avoir des pareils (comme il était habile),
Un jour que les renards tenaient conseil entre eux:
«Que faisons-nous, dit-il, de ce poids inutile,
Et qui va balayant tous les sentiers fangeux?
Que nous sert cette queue? Il faut qu’on se la coupe:
Si l’on me croit, chacun s’y résoudra.
Votre avis est fort bon, dit quelqu’un de la troupe;
Mais tournez-vous, de grâce, et l’on vous répondra.»
A ces mots il se fit une telle huée,
Que le pauvre écourté ne put être entendu.
Prétendre ôter la queue eût été temps perdu;
La mode en fut continuée.
Dịch
Một con Cáo “cáo” hơn mọi Cáo
Mõm nhai gà gặm thỏ rành nghề
Một hôm xấu hổ ê chề
Ăn trộm sa bẫy
Đuôi lìa khỏi thân
Nghĩ mà cực nhăn nhăn nhó nhó
Nghĩ mà ê cảnh đứt đuôi ra
Tiếng đồn lan khắp gần xa
Cáo liền nghĩ cách bầy ra họp hành
Để chữa thẹn, Cáo liền sáng kiến
Khuyên cả đàn vứt bỏ đuôi đi
Giữ cái đuôi ấy làm gì
Chẳng ra chổi quét, chẳng ra thịt thừa!
Cả bầy Cáo lạ gì Cáo nọ
Chẳng thèm nghe, la ó ầm lên
Một con cất giọng mỉa thêm:
“Xin quay lưng lại cho chiêm ngưỡng nào
Mốt này mới đẹp làm sao”
Cáo cộc xấu hổ lủi vào rừng sâu
Bà và và hai cô giúp việc
Il était une vieille ayant deux Chambrières.
Elles filaient si bien que les soeurs filandières
Ne faisaient que brouiller au prix de celles-ci.
La Vieille n’avait point de plus pressant souci
Que de distribuer aux Servantes leur tâche.
Dès que Téthis chassait Phébus aux crins dorés,
Tourets entraient en jeu, fuseaux étaient tirés ;
Deçà, delà, vous en aurez ;
Point de cesse, point de relâche.
Dès que l’Aurore, dis-je, en son char remontait,
Un misérable Coq à point nommé chantait.
Aussitôt notre Vieille encor plus misérable
S’affublait d’un jupon crasseux et détestable,
Allumait une lampe, et courait droit au lit
Où de tout leur pouvoir, de tout leur appétit,
Dormaient les deux pauvres Servantes.
L’une entr’ouvrait un oeil, l’autre étendait un bras ;
Et toutes deux, très malcontentes,
Disaient entre leurs dents : Maudit Coq, tu mourras.
Comme elles l’avaient dit, la bête fut grippée.
Le réveille-matin eut la gorge coupée.
Ce meurtre n’amenda nullement leur marché.
Notre couple au contraire à peine était couché
Que la Vieille, craignant de laisser passer l’heure,
Courait comme un Lutin par toute sa demeure.
C’est ainsi que le plus souvent,
Quand on pense sortir d’une mauvaise affaire,
On s’enfonce encor plus avant :
Témoin ce Couple et son salaire.
La Vieille, au lieu du Coq, les fit tomber par là
De Charybde en Scylla.
Dịch
Bà già có hai cô giúp việc
Xe sợi tài, Thần Chết thua to
Phân công việc cho hai cô
Ấy điều bức thiết bà lo phải làm
Thần Thái Dương óng vàng sợi cước
Vừa bị Thần Đại dương rượt trồi lên
Là xa đã vội quay liền
Con thoi thoăn thắt dưới trên trong ngoài
Không một phút phí hoài ngưng nghỉ
Ấy thế mà cứ hễ tinh mơ
Chú gà thảm hại đã lo
Gồng cổ há họng thật to gáy dồn
Thảm hại hơn, bà già cũng dậy
Luông ngay vào chiếc váy rất dơ
Thắp đèn rồi chạy thẳng vô
Tới giường đánh thức hai cô ngủ vùi
Thật tội nghiệp, quên đời ngủ kỹ
Say giấc nồng miệng hé tay dang
Chuyện xảy ra khiến hai nàng
Vô cùng tức giận nghiến răng buông lời:
“Đồ gà toi, tội mi đáng chết!”
Tinh mơ gà rục rịch lấy hơi
Họ cắt họng nó làm đôi
Đồng hồ báo thức đi đời nhà ma
Vụ sát nhân xem ra vô bổ
Bởi chủ nhà từ đó đêm đêm
Chỉ lo hai nàng ngủ quên
Nên thấy mắt họ chợp yên lúc nào
Là lúc ấy bà mau vùng dậy
Như đồ yêu tinh chạy đó đây
Thường ta hay thấy chuyện vầy trớ trêu:
Tưởng thoát được một điều ngang trái
Ngang trái này lại mãi sâu thêm
Bằng chứng hai cô gái trên
Đã phải trả giá nhãn tiền thế kia
Bà già nọ thay vì gà trống
Làm hai cô rơi trúng không xa
Từ tay Ma vương, quỷ Dạ xoa
Ngựa và sói
Un certain Loup, dans la saison
Que les tièdes Zéphyrs ont l’herbe rajeunie,
Et que les animaux quittent tous la maison,
Pour s’en aller chercher leur vie ;
Un loup, dis-je, au sortir des rigueurs de l’Hiver,
Aperçut un Cheval qu’on avait mis au vert.
Je laisse à penser quelle joie !
Bonne chasse, dit-il, qui l’aurait à son croc.
Eh ! que n’es-tu Mouton ? car tu me serais hoc :
Au lieu qu’il faut ruser pour avoir cette proie.
Rusons donc. Ainsi dit, il vient à pas comptés,
Se dit Ecolier d’Hippocrate ;
Qu’il connaît les vertus et les propriétés
De tous les Simples de ces prés,
Qu’il sait guérir, sans qu’il se flatte,
Toutes sortes de maux. Si Dom Coursier voulait
Ne point celer sa maladie,
Lui Loup gratis le guérirait.
Car le voir en cette prairie
Paître ainsi sans être lié
Témoignait quelque mal, selon la Médecine.
J’ai, dit la Bête chevaline,
Une apostume sous le pied.
Mon fils, dit le docteur, il n’est point de partie
Susceptible de tant de maux.
J’ai l’honneur de servir Nosseigneurs les Chevaux,
Et fais aussi la Chirurgie.
Mon galand ne songeait qu’à bien prendre son temps,
Afin de happer son malade.
L’autre qui s’en doutait lui lâche une ruade,
Qui vous lui met en marmelade
Les mandibules et les dents.
C’est bien fait, dit le Loup en soi-même fort triste ;
Chacun à son métier doit toujours s’attacher.
Tu veux faire ici l’Arboriste,
Et ne fus jamais que Boucher.
Dịch
Mùa xuân đã đến cỏ non
Được cơn gió ấm xanh rờn đón xuân
Thú to thú nhỏ hân hoan
Rời nhà hăm hở ra ăn giữa đồng
Sói ta hết sợ rét đông
Nhing xa thấy chú ngựa hồng, mừng sao:
“Chộp mồi ấy anh này tốt phước
Giá mà cừu ta rước ngon ơ
Ngựa này phải dụng mưu mô
Thì mưu mô vậy!” Lò dò Sói đi
Sói xưng hắn học Hipôrát
Cây quanh đây tính được biết thừa
Không nói dóc, hắn: Y sư
Chữa trăm ngàn chứng chẳng chừa chứng nao
“Nếu thần mã đau sao nói thật
Chữa lành ngay, lễ lạt chi cần
Bởi vì không buộc, không chăn
Được lung tung vậy, biết rằng đang đau
Phép chẩn ấy từ lâu sách dạy
“- Thưa thầy, tôi nhọt tấy ở chân”
Ngựa ta lễ phép nói năng
Và ông bác sĩ đáp rằng: “Đúng thôi
Trong cơ thể, chân lôi thôi nhất
Hứng bao nhiêu bệnh tật cũng vừa
Lương y dòng Mã đại gia
Tôi vinh hạnh món phẫu khoa cũng tài!”
Tên láu cá muốn xoay cơ hội
Cắn cổ anh đang trối ốm đau
Lom khom liếc trước nhìn sau
Ngựa ta đoán biết từ đầu, tung chân
Nện một đá trời gần đất ngái
Thầy dập mồm và sái hàm xai
Răng rơi mấy chiếc, hỡi ôi!
Não nùng, đành triết lý chơi thế này:
“Thuỷ chung một nghiệp là hay
Ta vốn đồ tể, làm thầy chẳng ăn!.
Lão nông và các con
Travaillez, prenez de la peine :
C’est le fonds qui manque le moins.
Un riche laboureur, sentant sa mort prochaine,
Fit venir ses enfants, leur parla sans témoins.
” Gardez-vous, leur dit-il, de vendre l’héritage
Que nous ont laissé nos parents :
Un trésor est caché dedans.
Je ne sais pas l’endroit ; mais un peu de courage
Vous le fera trouver : vous en viendrez à bout.
Remuez votre champ dès qu’on aura fait l’août :
Creusez, fouillez, bêchez ; ne laissez nulle place
Où la main ne passe et repasse. “
Le père mort, les fils vous retournent le champ,
Deçà, delà, partout : si bien qu’au bout de l’an
Il en rapporta davantage.
D’argent, point de caché. Mais le père fut sage
De leur montrer, avant sa mort,
Que le travail est un trésor.
Dịch
Hãy lao động cần cù gắng sức,
Ấy chân lưng sung túc nhất đời.
Phú nông gần đất xa trời
Họp riêng con lại ngỏ lời thiết tha
Rằng: “Ruộng đất ông cha để lại
Các con đừng khờ dại bán đi
Kho vàng chôn dưới đất kia
Cha không biết chỗ. Kiên trì gắng công
Tìm khắc thấy, cuối cùng sẽ thắng
Xốc ruộng lên tháng tám sau mùa
Tay cày, tay cuốc, tay bừa,
Xới qua xới lại chẳng chừa chỗ không”
Bố chết. Các con cùng gắng gổ
Lật tung đồng đây đó khắp nơi.
Kỹ càng công việc xong xuôi,
Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu.
Vàng với bạc giấu mô chẳng thấy,
Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan:
Trước khi từ giã trần gian,
Lấy câu “lao động là vàng” dạy con.
Núi ở cữ
Une Montagne en mal d’enfant
Jetait une clameur si haute,
Que chacun au bruit accourant
Crut qu’elle accoucherait, sans faute,
D’une Cité plus grosse que Paris :
Elle accoucha d’une Souris.
Quand je songe à cette Fable
Dont le récit est menteur
Et le sens est véritable,
Je me figure un Auteur
Qui dit : Je chanterai la guerre
Que firent les Titans au Maître du tonnerre.
C’est promettre beaucoup : mais qu’en sort-il souvent ?
Dịch
Một chị núi trở dạ
Kêu, la, hét quá sá
Hàng xóm tới xúm quanh
Tưởng chị đẻ một thành
To hơn Paris nọ
Chị đẻ con chuột nhỏ
Nghĩ đến ngụ ngôn kia
Với chuyện kể thất thiệt
Mà ý nghĩa thì tuyệt
Tôi mường tượng một người
Tuyên bố: “Sẽ ca ngợi
Cuộc chiến tranh vang dội
Các khổng lồ Titan
Tiến hành chống thiên vương”
Nhà văn hứa nhiều đó
Cuối cùng thường chỉ có
Gió
Thần mệnh và em bé
Sur le bord d’un puits très profond
Dormait, étendu de son long,
Un enfant alors dans ses classes.
Tout est aux écoliers couchette et matelas.
Un honnête homme, en pareil cas,
Aurait fait un saut de vingt brasses.
Près de là, tout heureusement,
La Fortune passa, l’éveilla doucement,
Lui disant : «Mon mignon, je vous sauve la vie;
Soyez une autre fois plus sage, je vous prie.
Si vous fussiez tombé, l’on s’en fût pris à moi;
Cependant c’était votre faute.
Je vous demande, en bonne foi,
Si cette imprudence si haute
Provient de mon caprice.» Elle part à ces mots.
Pour moi, j’approuve son propos.
Il n’arrive rien dans le monde
Qu’il ne faille qu’elle en réponde :
Nous la faisons de tous écots;
Elle est prise à garant de toutes aventures.
Est-on sot, étourdi, prend-on mal ses mesures,
On pense en être quitte en accusant son sort :
Bref, la Fortune a toujours tort
Dịch
Trên thành giếng rất sâu
Nằm dài đánh một giấc
Một em bé đang tuổi đi học
(Học trò thì lăn ngủ bất kì đâu!
Người khôn hễ gặp giếng sâu
Nhảy nai nhảy ngựa tránh mau cho rồi)
May sao vừa dạo đến nơi
Thần Số mệnh khe khẽ lời gọi em
Thần rằng: “Cứu cháu một phen
Lần sau van cháu chớ nên quá khờ
Bé yêu, bé đã nghe chưa?
Lăn kềnh, họ lại đổ bừa tại ta
Đây thật rõ là
Lỗi của cháu cả
Ta hỏi thật nhá:
“Liều tợn thế này
Phải do ta hứng, đặt bày ra chăng?”
Nói xong thần bước phăng phăng
Tôi tán thưởng lời răn dạy đó
Gặp nạn gì cũng đổ “Số ta!”
Mồm luôn bảo số làm ra
Số luôn gây những phong ba, cũng kì!
Xảy mọi việc đều quy Số mệnh
Ngu dại hay liều lĩnh không phòng
Đổ cho Số cả là xong
Chung quy tội số chất chồng
Trên đây, chúng ta đã chia sẻ đến các bạn những bài thơ sâu sắc và giàu giá trị nhất của nhà thơ La Fontaine. Ông ngoài là nhà thơ còn là một người chuyên viết tiểu thuyết và truyện kiệt xuất được giới trẻ săn đón và ưa chuộng.