Trong nền thơ ca Việt Nam, Lê Đạt là một cây bút vang danh được đông đảo bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Với ngòi bút tinh tế cùng sự tìm tòi mà những thi phẩm của ông luôn đi sâu vào tâm hồn người đọc. Nếu bạn tò mò về thi sĩ kiệt xuất này thì hãy cùng chúng tôi đón xem tập thơ Chiều Bích Câu thành công nhất của ông nha!
Xưng danh
Phó thường dân
phố nhỏ vô danh
vô giai thoại
Thành tích
mấy trang giấy sờn
mấy câu thơ bụi
núi Vô Sơn
Quá trình công tác
Tôi ghé như thiểu số phụ gia
Vẩy chữ thăng hoa
Thoáng cà cuống chưa đóng lọ
Đừng tìm tôi
chỗ những ghế ngồi
Hộp thư
đuôi chớp ngộ đầu ô
Khuyết điểm
Vườn chôm chôm
mùa khem thèm thòm trái cấm
Vui mồm lắp lẫn
nhiều kinh kệ không quen
Amen
Kết luận
Đời tốc hành
một ga xanh sót lại
Một góc tuổi mải tàu
thơ dại mãi
Tìm nhà quên mất số lớn khôn
Cha tôi
Đất quê cha tôi
đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ
cha tôi dẫn đầu
lũ trẻ đi chăn trâu
Phất ngọn cờ lau
Vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám
Lớn lên
cha tôi đi dạy học
Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước
Khóc Phan Chu Trinh
Như khóc người nhà mình
Ôm mộng bôn ba hải ngoại
Lênh đênh khói một con tàu
Sớm tối
ngâm nga mấy vần cảm khái
Đánh nhau với Tây
Bỏ việc
lang thang
vào Nam
ra Bắc
Cắt tóc đi tu
nhưng quá nặng nghiệp đời
Gần hai mươi năm trời
Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng
Dạy tôi
làm thơ
ước mơ
hy vọng
Những câu Kiều say sưa
đưa cuộc đời bay bổng
Tiếng võng
trưa hè mênh mông
“Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì”
Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó
Cuộc đời chợ đen chợ đỏ
Thù hằn con người
“Muốn sống thanh cao
đi lên trời mà ở
Mày đã quyết kiêu căng
Níu lấy cái lương tâm gàn dở
Dám
không tồi như chúng tao
Suốt đời mày sẽ khổ”
Quan lại trù cha tôi
cứng đầu cứng cổ
Người “An Nam” dám đánh “ông Tây”
Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày
Chửi mèo, mắng chó
“Cũng là chồng là con
Chồng người ta khôn ngoan
Được lòng ông tuần ông phủ
Mang tiền về nuôi vợ”
Bát đĩa xô nhau vỡ
Cha tôi nằm thở dài
Cha nhịn đi cho đỡ
Anh em tôi bỏ cơm
Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn
Trời mùa thu trăng sáng
Sao nở như hoa
Không biết Ngưu Lang trên kia
Có bao giờ cãi nhau cùng Chức Nữ
Rồi cha tôi
lui tới nhà quan tuần, quan phủ
Lúc về
gặp tôi
đỏ mặt
quay đi
Một hôm
tôi thấy chữ R.O.(*)
treo ngoài cửa
Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa
Người còn bận đếm tiền
ghi sổ
Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ
Một mình uống rượu say
Ngâm mấy câu Kiều
ôm mặt khóc
Tỉnh dậy
lại loay hoay
ghi sổ
đếm tiền
Hai vai nhô lên
Đầu lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi
im lặng
Ngọn đèn leo leo ánh sáng
Bóng với người
như nhau
Mùi ẩm mốc tiếng mọt kêu cọt kẹt
Ở chân bàn
hay ở cha tôi
Cuộc sống hàng ngày
nhỏ nhen
tàn bạo
Rác rưởi gia đình
miếng cơm
manh áo
Tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa
như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
bao nhiêu khát vọng
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
kiên quyết làm người
Thuở xanh hai
Không ai chọn đất mình sinh đẻ
Như không ai chọn mẹ chọn cha
Tôi trở về nơi tôi tuổi nhỏ
Một tỉnh thượng du bụi đỏ
Bến Âu Lâu sông Hồng
Nhận ra tôi
chỉ gốc cây gạo cụt
Tạm ứng nửa trời hoa trước đón nhau
Một em gái nhìn tôi bỡ ngỡ
Ngày nào anh còn mua kẹo em ăn
Dung dăng dắt tay em ngoài phố
Mới hơn mười năm trời
Em xa lạ gọi tôi bằng bác
Vầng trán lạnh dăm nếp đau ngơ ngác
Hỏi thầm đôi sợi tóc vô tình
sớm bạc vì đâu
Có đủ giải sông Ngân
Cắt chúng ta bờ hai thế hệ
Em bỗng cười như nắc nẻ
“Em nhận ra anh rồi
Sao anh mau… trẻ thế”
Và thoăn thoắt xuân vút cao đà nắng
Em giơ tay rất quân sự chào tôi
Ai đánh rớt những cánh hôn hồng cỏ dại
Hoa mười giờ
môi con gái chín cây
Em dắt tay tôi đi chơi
Giữa vườn sao nở sáng
Như tuổi em chưa mười tám
Như ngày nào dĩ vãng
Sống lại dần từng phút quê xưa
Có phải em nhận ra tôi
tôi nhận ra thơ nhỏ
Thuở xanh hai
mình lại ra đời
Hoa mười giờ
Em hái hoa mười giờ
Hoa thì em mười bảy
Tim tìm em chả thấy
Hoa chỉ hoa mười giờ
Anh trồng hoa mười giờ
Hoa mở vườn em hái
Mắt đuôi chớp xuân về
Hoa chạy hường lên má
Hoa em đền hoa má
Thơm má hoa mười giờ
Mưa rửa đền
Hoa tuổi trắng lau quên
Gốc khế
Khi gió mùa anh đi
Sang sông tìm nắng khác
Để mẹ già tóc bạc
Lưng còng trên gậy tre
Để người yêu ngơ ngác
Gốc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về
Mẹ già anh ngơ ngác
Lưng còng đau gậy tre
Người yêu anh đốm bạc
Tóc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về
Ba năm rồi ba năm
Mẹ anh thành nấm đất
Người yêu anh cũng đi
Gốc nửa ngày khế chát
Sót bóng hoa mơ chờ
Hái hoa
Anh rừng anh hái hoa
Hoa lúm hoa bông thắm
Hoa bông môi thật hồng
Em đùa em lấy chồng
Hoa cho bông chết đắng
Anh lòng anh hái hoa
Hoa hái hoa bông thắm
Hoa bông hoa rỏ hồng
Hoa hồng bông hồng bông
Anh muốn
Anh muốn làm bông hoa
Đầu xuân cài cỏ mộ
Thơm em đôi nỗi hường
Khuây hương đừng khóc nữa
Anh muốn làm con chim
Xập xanh xoè cửa ngó
Líu lô em quái chiều
Má đèn xoe sáng ngõ
Anh muốn gối trăng em
Một tình như duyên lạ
Nhé yêu anh bây giờ
Quên đi anh ngày cũ
Chiều Bích Câu
Cột đèn rớm điện
Là chiều Bích Câu
Rằng tiên giáng trần
Rằng ta gặp nhau
Lạnh giờ em đâu
Khói lay mái chùa
Mà ngỡ tên em
Mờ ơ đá vỡ
Ba hồi ngân chuông
Có nhớ có thương
Thì ròng tóc xuống
Mây trắng ngàn năm
Ơi em cổ tích
Mùi mưa xưa
lòng chưa tạnh
Thuỷ lợi
Em vỗ lòng anh
Một dòng nghĩa nặng
Đất xưa cỏ đắng
Heo may trắng đồng
Nay mùa đông lúa
Ngô bồng bông con
Nay đàn chữ lội
Lá ô xoè đường
Nay hoa đơm lối
Bướm về văn công
Một đàn ngày trắng phau phau
Bì bạch bờ xoan nước mát
Mộng hoa dâu lum lúm má sông đào
Sông quê (II)
Bầy em én
tin xuân
tròn mẩy áo
Hội kênh đầy
chân trắng ngấn sông quê
Nắng mười tám
má bờ đê con gái
Cây ải cây ai
gió sải
tóc buông thề
Ông lão trạm bơm
miệng o tròn
ria chóp nón
Ô trời
lòng cổ thụ bỗng tình tang
Máy kéo gặm xứ đồng tơ ơ cỏ
Nghé sắt buồn lưng sáo đá xon xon
Lê Đạt chủ trương dường lối thơ tạo sinh – thơ phải dựa vào ý tại ngôn ngoại, phải cô đúc, đa tầng, đa nghĩa, và đa ngã (phỏng theo nhà phê bình Thuỵ Khê). Ông là một cây bút giá trị góp phần không nhỏ trong sự phát triển văn học nước nhà.