Nam Trân được xem là một nhà thơ trí thức yêu nước của làng thơ ca Việt Nam. Thơ và dịch thuật của Nam Trân đem đến nét đặc sắc riêng cũng như những giá trị to lớn khi đặt nó vào ý thức canh tân văn học của các nhà văn Việt Nam trong những năm 30 thế kỷ XX. Chính ý thức này đã nhanh chóng đưa văn học nước ta hoàn thành tiến trình hiện đại hóa văn học, đưa nền văn học của dân tộc ta thoát khỏi sự nô dịch của văn học phương Tây. Ông có một kho tàng thơ dịch đồ sộ của nhiều thi sĩ lớn trên thế giới.
Xuân nhật 春日 • Ngày xuân
勝日尋芳泗水濱,
無邊光景一時新。
等閒識得東風面,
萬紫千紅總是春。
Xuân nhật
Thắng nhật tầm phương Tứ thuỷ tân,
Vô biên quang cảnh nhất thời tân.
Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện,
Vạn tử thiên hồng tổng thị xuân.
Dịch nghĩa
Ngày đẹp trời đi tìm hoa thơm cỏ lạ đến bến sông Tứ,
Quang cảnh lớn rộng đâu đâu bây giờ cũng mới mẻ.
Có thảnh thơi mới nhận thức được mặt gió đông,
Vạn tía ngàn hồng gộp lại làm mùa xuân.
Khuê ý – Cận thí thướng Trương thuỷ bộ
洞房昨夜停紅燭,
待曉堂前拜舅姑。
妝罷低聲問夫婿,
畫眉深淺入時無?
Khuê ý – Cận thí thướng Trương thuỷ bộ
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc,
Đãi hiểu đường tiền bái cữu cô.
Trang bãi đê thanh vấn phu tế:
“Hoạ mi thâm thiển, nhập thì vô?”
Dịch nghĩa
Đêm trước khi động phòng, tắt ngọn nến hồng
Đợi đến sáng lên nhà chào mẹ cha
Trang điểm xong quay lại hỏi nhỏ chồng:
“Tô lông mày thế này đậm hay nhạt?”
Dịch
Phòng hoa vừa tắt ngọn đèn hồng,
Chờ sáng lên thăm bố mẹ chồng.
Mày kẻ vừa xong, khe khẽ hỏi:
“Anh xem sẫm nhạt, hợp thời không ?”
Vầng trăng phương đông 东方月
一
万里奇游,饥寒之国。
闻说道:“胡天八月雪”,
可也只萧萧秋意,依依寒色;
只有那赤都云影,掩没了我“东方月”。
二
月圆月缺人离别,
人离别,长相忆。
万古“中秋”,未入欧人诗思词说。
原万族共“婵娟”,但愿“婵娟”年千亿。
三
又何必,人相念,月相望,细问太阴历?
欧亚梦影,灯前不堪回忆,
独恨那凝云俺映,希冀一线俱绝。
四
秋原黄叶,才领略别离滋味,
怎知道,有灾〓流乱,更饥寒万时里。
只听那琐碎的蹄声,凄凉的雨意,
催嫦娥强现半面,掩云幕,永诀矣!
Dịch
1
Chuyến đi vạn dặm li kỳ
Nước này đói rét
Nghe nói “Trời xứ Hồ
Tháng tám đầy tuyết”
Nhưng đó mới ý thu buồn
một màu lạnh ngắt
Chỉ ở Xích đô này
mây che mất “đông phương nguyệt”
2
Trăng tròn, trăng khuyết
người li biệt
Người li biệt
nhớ nhung khôn xiết
Muôn thuở “trung thu”
Tứ thơ này, người Âu chưa biết
Muôn dân tộc đều “thuyền quyên”
chỉ ước “thuyền quyên” trẻ mãi
3
Người nhớ trăng, trăng nhớ người
cần gì giở xem âm lịch
Âu, Á, Hoa, Nga
trời tình thắm thiết
Mộng tưởng sum vầy
dưới đèn nghĩ càng da diết
Chỉ giận mây che ánh sáng
một tia trông vời biền biệt
4
Thu có nhuốm vàng
mới có màu li biệt
Sao biết có tai nạn lưu li
dặm nghìn đói rét
Chỉ nghe tiếng vó ngựa rã rời
tiếng mưa rả rích
Giục gương nga ló nửa vành
cùng đám mây mùa vĩnh biệt
Sóng Vagues
Les vagues furieuses de la liberté
Claquent sur la Bête affolée
De l’esclave d’hier un combattant est né
Et le docker de Suez et le coolie d’Hanoï
Tous ceux qu’on intoxique de fatalité
Lancent leur chant immense au milieu des vagues
Les vagues furieuses de la liberté
Qui claquent sur la Bête affolée.
Dịch
Những làn sóng Tự do đang sục sôi, nhào lộn
Xoắn lấy nhau, bổ đầu lũ thú dữ điên cuồng
Những nô lệ đã vùng lên thành chiến sĩ anh hùng!
Nào người khuân vác ở Xuy-ê
Nào người công nhân ở Hà Nội
Những người trước đây bị đầu độc, sống cầu an
Họ thân ái hát lên bài ca vĩ đại
Và đắc thắng, lời ca trên sóng trào, lượn mãi
Và làn sóng Tự do cứ sục sôi, nhào lộn
Xoắn lấy nhau, bổ vào đầu lũ thú dữ điên cuồng.
Thằng phản bội
Nhe hàm răng trắng như ngà
Ông anh nhoẻn nụ cười giả đạo đức
Kính ông anh đeo gọng vàng sáng rực
Và vì nói tiếng Tây, tiếng của chủ mình
Mắt ông anh cũng hoá ra xanh
Ông anh mặc áo xa-tanh
May kiểu đuôi xẻ
Ngồi ung dung trong xa-lông đẹp đẽ
Vênh vênh váo váo ra vẻ hợm mình
Này, chúng tao biết mi thật đáng thương
Và biết rằng vầng Thái-dương
Của Tổ quốc không rọi lên mi ánh sáng
Mà trùm lên mi một bóng đen hắc ám
Giá nghĩ bà mi đang chui rúc trong lều
Ắt hẳn mặt mi sẽ bừng bừng đỏ
Nhưng vì bao năm sống phục tùng không biết hổ
Người mi đã hoá thằng Tây
Khi nào đã ngấy lời rỗng không, vô bổ
(Nó vang lên như chiếc trống giữa hai vai)
Khi nào đi trên đất nước khổ đau
Của Châu Phi màu đỏ
Mi sẽ đi những bước bồi hồi
Chân bước đi, mồm cứ lặp hoài:
“Ôi, thân ta thật là đơn độc!
“Ở đây ta thật là đơn độc!
Quá Hoa Thanh cung kỳ 1 過華清宮其一
長安回望繡成堆,
山頂千門次第開。
一騎紅塵妃子笑,
無人知是荔枝來。
Quá Hoa Thanh cung kỳ 1
Trường An hồi vọng tú thành đồi,
Sơn đính thiên môn thứ đệ khai.
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,
Vô nhân tri thị lệ chi lai!
Dịch nghĩa
Quay lại trông Trường An như gò thêu gấm
Trên đỉnh núi, nghìn cửa lần lượt mở ra
Một người cỡi ngựa tung bụi hồng, Quý Phi mỉm cười
Không ai biết ấy là quả vải đã tiến về cung.
Dịch
Ngoảnh lại Trường An tựa gấm thêu
Đầu non nghìn cửa mở liền nhau
Bụi hồng ngựa ruổi, phi cười nụ
Vải tiến mang về ai biết đâu.
Quá Hoa Thanh cung kỳ 2 過華清宮其二
新豐綠樹起黃埃,
數騎漁陽探使迴。
霓裳一曲千峰上,
舞破中原始下來。
Quá Hoa Thanh cung kỳ 2
Tân Phong lục thụ khởi hoàng ai,
Sổ kỵ Ngư Dương thám sứ hồi.
“Nghê thường” nhất khúc thiên phong thượng,
Vũ phá trung nguyên thuỷ há lai.
Dịch nghĩa
Bụi vàng tung bay trên đường cây xanh ở Tân Phong,
Do ngựa của quân thám báo từ Ngư Dương chạy hoả tốc về.
Vũ khúc “Nghê thường” vẫn đang được múa trên đỉnh núi cao.
Ca múa giúp giặc bắt đầu tràn xuống chiếm đóng trung nguyên.
Quá Hoa Thanh cung kỳ 3 過華清宮其三
萬國笙歌醉太平,
倚天樓殿月分明。
雲中亂拍祿山舞,
風過重巒下笑聲。
Quá Hoa Thanh cung kỳ 3
Vạn quốc sinh ca tuý thái bình,
Ỷ thiên lâu điện nguyệt phân minh.
Vân trung loạn phách Lộc Sơn vũ,
Phong quá trùng loan hạ tiếu thanh.
Dịch nghĩa
Cả nước say đàn ca vui hưởng thái bình,
Trăng sáng soi cung điện được ơn trời phù hộ.
Trong mây mọi người cuồng nhiệt vỗ tay cho Lộc Sơn múa,
Gió đưa tiếng cười đùa xuống tới chân núi.
Sơn hành 山行 • Đi đường núi
遠上寒山石徑斜,
白雲生處有人家。
停車坐愛楓林晚,
霜葉紅於二月花。
Sơn hành
Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà,
Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia.
Đình xa toạ ái phong lâm vãn,
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.
Dịch nghĩa
Lên ngọn núi, đường đá chênh chênh,
Giữa nơi lửng lơ mây trắng có nhà người ở.
Dừng xe vì yêu cảnh rừng phong buổi chiều,
Lá gặp sương thu, mầu đỏ hơn cả hoa tháng hai.
Tặng biệt kỳ 2 贈別其二 • Tặng lúc chia tay kỳ 2
多情卻似總無情,
唯覺樽前笑不成。
蠟燭有心還惜別,
替人垂淚到天明。
Tặng biệt kỳ 2
Đa tình khước tự tổng vô tình,
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thuỳ lệ đáo thiên minh.
Dịch nghĩa
Đa tình mà lại giống như vô tình,
Chỉ cảm thấy trước chén rượu muốn cười mà không được.
Ngọn nến có lòng thương tiếc lúc chia tay,
Nên thay người nhỏ lệ đến tận sáng.
Dịch
Đa tình mà lại giống vô tình,
Đâu dễ khuây nguôi trước chén quỳnh.
Ngọn nến có lòng còn luyến tiếc,
Thay người nhỏ lệ suốt năm canh.
Thanh minh 清明 • Tiết thanh minh
清明時節雨紛紛,
路上行人欲斷魂。
借問酒家何處有?
牧童遙指杏花村。
Thanh minh
Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn.
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.
Dịch nghĩa
Tiết thanh minh mưa rơi lất phất
Người đi trên đường buồn tan nát cả tấm lòng
Ướm hỏi nơi nào có quán rượu
Trẻ chăn trâu chỉ xóm Hoa Hạnh ở đằng xa
Dịch
Thanh minh lất phất mưa phùn
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa
Hỏi thăm quán rượu đâu à?
Mục đồng chỉ lối Hạnh Hoa thôn ngoài.
Xích Bích hoài cổ 赤壁懷古
折戟沉沙鐵未銷,
自將磨洗認前朝。
東風不與周郎便,
銅雀春深鎖二喬。
Xích Bích hoài cổ
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.
Dịch nghĩa
Mũi kích gãy nằm trong cát, sắt chưa mòn hết,
Tự tay mình mài rũa, đã nhận thấy dấu vết triều đại vừa qua.
Gió đông ví không thuận tiện cho chàng Chu Du,
Thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khoá chặt hai nàng Kiều
Dịch
Cát vùi lưỡi kích còn trơ,
Rũa mài nhận dấu triều xưa rõ ràng
Gió đông ví phụ Chu Lang
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều
Tái kinh Hồ Thành huyện 再經胡縣城
去歲曾經此縣城,
縣民無口不冤聲;
今來縣宰加朱紱,
便是生靈血染成。
Tái kinh Hồ Thành huyện
Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh.
Kim lai huyện tể gia chu phất,
Tiện thị sinh linh huyết nhiễm thành.
Dịch nghĩa
Năm ngoái ta từng đi qua huyện này
Không miệng người dân nào không cất tiếng kêu oan
Năm nay quan huyện lại được thưởng dây tua đỏ
Hẳn là do máu dân lành nhuộm nên
Dịch
Năm ngoái ta đi khắp huyện này,
Tiếng oan dậy đất não nùng thay.
Nay quan được thưởng dây tua đỏ,
Chính máu dân lành nhuộm đỏ dây.
Kim lũ y 金縷衣 • Áo kim tuyến
勸君莫惜金縷衣,
勸君惜取少年時。
花開堪折直須折,
莫待無花空折枝。
Kim lũ y
Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Dịch nghĩa
Khuyên anh đừng tiếc áo thêu vàng,
Khuyên anh hãy tiếc thời niên thiếu:
Hoa nở đáng bẻ thì bẻ ngay,
Đừng chờ hoa rụng bẻ cành không.
Điền gia 田家 • Nhà nông
雞唱三聲天欲明,
安排飯碗與茶瓶。
良人猶怒催耕早,
自扯蓬窗看曉星。
Điền gia
Kê xướng tam thanh thiên dục minh,
An bài phạn uyển dữ trà bình.
Lương nhân do nộ thôi canh tảo,
Tự xả bồng song khan hiểu tinh.
Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 1
法本如無法,
非有亦非空。
若人知此法,
眾生與佛同。
Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 1
Pháp bản như vô pháp,
Phi hữu diệc phi không.
Nhược nhân tri thử pháp,
Chúng sinh dữ Phật đồng.
Dịch nghĩa
Thế giới hiện tượng vốn như không có,
Chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không.
Nếu người ta hiểu được cái nguyên lý ấy,
Thì chúng sinh cũng đồng nhất với Phật.
Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 2
寂寂棱伽月,
空空渡海舟。
知空空覺有,
三昧任通週。
Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 2
Tịch tịch Lăng Già nguyệt,
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu,
Tam muội nhậm thông chu.
Dịch nghĩa
Lặng lẽ như vầng trăng trên núi Lăng Già,
Hư không như con thuyền vượt biển.
Biết đúng cái không thì cái không hoá ra cái có,
Và sẽ mặc ý mà đi suốt và đi khắp tam muội.
Dịch
Lặng như vầng nguyệt núi Lăng Già,
Hư tựa con thuyền vượt sóng ra.
Biết cả lẽ “không” và lẽ “có”,
Lại dùng “tam muội” hiểu sâu xa.
Ngư nhàn 漁間 • Cái nhàn của ngư ông
萬里清江萬里天,
一村桑柘一村煙。
漁翁睡著無人喚,
過午醒來雪滿船。
Ngư nhàn
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Dịch nghĩa
Sông xanh muôn dặm, trời muôn dặm,
Một xóm dâu gai, xóm khói mây.
Ông chài ngủ say tít không ai gọi,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền.
Dịch
Vạn dặm sông xanh, trời vạn dặm,
Từng miền dâu ruối, khói quanh miền.
Ông chài ngon giấc không ai gọi,
Tỉnh dậy sau trưa, tuyết ngậm thuyền.
Mộc Lan từ 木蘭詞 • Bài ca về nàng Mộc Lan
唧唧復唧唧,
木蘭當戶織,
不聞機杼聲,
惟聞女歎息。
問女何所思,
問女何所憶。
女亦無所思,
女亦無所憶。
昨夜見軍帖,
可汗大點兵;
軍書十二卷,
卷卷有爺名。
阿爺無大兒,
木蘭無長兄,
願為市鞍馬,
從此替爺征。
東市買駿馬,
西市買鞍韉,
南市買轡頭,
北市買長鞭。
旦辭爺孃去,
暮宿黃河邊,
不聞爺孃喚女聲,
但聞黃河流水聲濺濺。
旦辭爺孃去,
暮宿黑山頭,
不聞爺孃喚女聲,
但聞燕山胡騎聲啾啾。
萬里赴戎機,
關山度若飛,
朔氣傳金柝,
寒光照鐵衣。
將軍百戰死,
壯士十年歸。
歸來見天子,
天子坐明堂,
策勳十二轉,
賞賜百千強。
可汗問所欲,
「木蘭不用尚書郎,
願借明駝千里足,
送兒還故鄉。」
爺孃聞女來,
出郭相扶將;
阿姊聞妹來,
當戶理紅妝;
小弟聞姊來,
磨刀霍霍向豬羊。
開我東閣門,
坐我西閣床;
脫我戰時袍,
著我舊時裳;
當窗理雲鬢,
對鏡貼花黃。
出門看伙伴,
伙伴皆驚惶:
同行十二年,
不知木蘭是女郎!
雄兔腳撲朔,
雌兔眼迷離,
兩兔傍地走,
安能辨我是雄雌?
Mộc Lan từ
Tức tức phục tức tức,
Mộc Lan đương hộ chức,
Bất văn cơ trữ thanh,
Duy văn nữ thán tức.
Vấn nữ hà sở tư,
Vấn nữ hà sở ức.
Nữ diệc vô sở tư,
Nữ diệc vô sở ức.
Tạc dạ kiến quân thiếp,
Khả hãn đại điểm binh;
Quân thư thập nhị quyển,
Quyển quyển hữu gia danh.
A gia vô đại nhi,
Mộc Lan vô trưởng huynh,
Nguyện vi thị yên mã,
Tòng thử thế gia chinh.
Đông thị mãi tuấn mã,
Tây thị mãi yên tiên,
Nam thị mãi bí đầu,
Bắc thị mãi trường tiên.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hoàng hà biên,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Hoàng hà lưu thuỷ thanh tiễn tiễn.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hắc sơn đầu,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Yên sơn Hồ kỵ thanh thu thu.
Vạn lý phó nhung cơ,
Quan sơn độ nhược phi,
Sóc khí truyền kim thác,
Hàn quang chiếu thiết y.
Tướng quân bách chiến tử,
Tráng sĩ thập niên quy.
Quy lai kiến thiên tử,
Thiên tử toạ minh đường,
Sách huân thập nhị chuyển,
Thưởng tứ bách thiên cường.
Khả hãn vấn sở dục,
“Mộc Lan bất dụng thượng thư lang,
Nguyện tá minh đà thiên lý túc,
Tống nhi hoàn cố hương.”
Gia nương văn nữ lai,
Xuất quách tương phù tương;
A tỷ văn muội lai,
Đương hộ lý hồng trang;
Tiểu đệ văn tỷ lai,
Ma đao hoắc hoắc hướng trư dương.
Khai ngã đông các môn,
Toạ ngã tây các sàng;
Thoát ngã chiến thì bào,
Trước ngã cựu thì thường;
Đương song lý vân mấn,
Đối kính thiếp hoa hoàng.
Xuất môn khán hoả bạn,
Hoả bạn giai kinh hoàng:
Đồng hành thập nhị niên,
Bất tri Mộc Lan thị nữ lang!
Hùng thố cước phác sóc,
Thư thố nhãn mê ly,
Lưỡng thố bàng địa tẩu,
An năng biện ngã thị hùng thư?
Dịch
Than thở lại thở than,
Mộc Lan dệt bên cửa.
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe cô than thở.
Phải chăng buồn vì lo,
Phải chăng buồn vì nhớ?
Không phải buồn vì lo,
Không phải buồn vì nhớ.
Đêm qua nhìn quân thiếp
Biết có lệnh trưng binh.
Danh sách mười hai tập,
Đều ghi tên bố mình.
Bố không con trai lớn,
Mộc Lan không có anh.
Cô quyết mua yên ngựa,
Thay bố đi tòng chinh.
Mua ngựa ở chợ Đông,
Mua yên ở chợ Đoài,
Chợ Nam mua cương khớp,
Chợ Bắc mua roi dài.
Biệt mẹ cha buổi sớm,
Tối cạnh Hoàng Hà ngơi.
Chẳng nghe tiếng mẹ cha gọi con gái,
Chỉ nghe Hoàng Hà sóng nước thét hoài.
Biệt Hoàng Hà buổi sớm,
Tối đến Hắc Sơn ngơi.
Chẳng nghe tiếng mẹ cha gọi con gái,
Chỉ nghe Yên Sơn ngựa giặc hí vang trời.
Muôn dặm xông ra trận,
Quan ải vụt bay đi.
Mõ đồng rền chướng khí,
Trăng lạnh rọi nhung y.
Trăm trận tướng quân chết,
Mười năm tráng sĩ về.
Về bái yết thiên tử,
Thiên tử ngồi minh đường.
Xét thưởng hai mươi bậc,
Ban cho trăm ngàn vàng.
Vua dò hỏi ý muốn
“Mộc Lan không nhận chức quan sang,
Chỉ xin thiên lý mã,
Đưa về với cố hương”.
Mẹ cha nghe tin ấy,
Ra thành đón con về.
Chị cô nghe tin ấy,
Sửa soạn chốn buồng the.
Em trai nghe tin ấy,
Mài dao soàn soạt mổ bò dê.
Cô mở cửa gác Đông,
Cô ngồi giường gác Tây.
Cởi bỏ bộ quân phục,
Mặc xiêm áo thường ngày.
Bên song sửa mái tóc,
Hoe vàng ngắm gương cài.
Ra cửa thăm bè bạn,
Bạn bè thảy ngạc nhiên:
“Mười hai năm đồng ngũ,
Ngờ đâu gái giả trai!”
Thỏ đực chân mấp máy,
Thỏ cái mắt mê tơi.
Cặp thỏ song song chạy,
Nhận ra ta đực cái mới tài.
Dịch thuỷ tống biệt 易水送別
此地別燕丹,
壯士髮衝冠。
昔時人已沒,
今日水猶寒。
Dịch thuỷ tống biệt
Thử địa biệt Yên Đan,
Tráng sĩ phát xung quan.
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thuỷ do hàn.
Dịch nghĩa
Nơi đây khi từ biệt Thái tử Đan nước Yên
Tóc tráng sĩ dựng đứng lên sát mũ
Người xưa đã khuất rồi
Nước sông Dịch ngày nay còn giá lạnh.
Dịch
Nơi này biệt Yên Đan,
Tráng sĩ tóc dựng ngược.
Người xưa đã khuất rồi,
Nước sông còn lạnh buốt.
Tại ngục vịnh thiền 在獄詠蟬
西陸蟬聲唱,
南冠客思深。
不堪玄鬢影,
來對白頭吟。
露重飛難進,
風多響易沉。
無人信高潔,
誰為表予心?
Tại ngục vịnh thiền
Tây lục thiền thanh xướng,
Nam quan khách tứ thâm.
Bất kham huyền mấn ảnh,
Lai đối bạch đầu ngâm.
Lộ trọng phi nan tiến,
Phong đa hưởng dị trầm.
Vô nhân tín cao khiết,
Thuỳ vị biểu dư tâm?
Dịch nghĩa
Mùa thu ve sầu kêu,
Người tù nghĩ ngợi sâu xa.
(Ve) không kham nổi bóng đôi cánh đen của mình,
(nên) đến ngâm trước (ông già) đầu bạc.
Sương nặng, (ve) bay khó tiến,
Gió nhiều, tiếng vang dễ bị chìm.
Không ai tin điều cao khiết,
Còn ai bày tỏ hộ nỗi lòng ta?
Dịch
Thu đến, ve kêu tiếng
Trong lao khách nhớ nhà
Xót xa khi cánh mỏng
Than vãn trước đầu phơ
Sương nặng bay khôn nổi
Gió to giọng dễ nhòa
Thanh cao không kẻ biết
Ai ngỏ giúp lòng ta?
Nam Trân không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng mà còn là một nhà dịch giả vang danh với những bài thơ dịch nổi tiếng trên thế giới được bạn đọc yêu mến. Đọc bài viết chúng ta thêm phần ngưỡng mộ tài năng của ông bởi không có nhiều nhà thơ có sự am hiểu ngôn ngữ như vậy.