Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một nhà thơ, nhà văn hóa cận đại của Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Có thể nói cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về nghị lực, đạo đức và lý tưởng sống. Và cái đẹp ấy cũng gần tới cái đẹp của văn chương. Để rồi chính con người ông đã viết nên những vần thơ hay độc đáo. Tiêu biểu trong đó chính là tính chất đạo đức – trữ tình tỏng thơ văn.

Hãy cùng tìm hiểu những bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu hay đặc sắc mà tapchivannghe.com giới thiệu với bạn dưới đây bạn nhé!

Nước lụt

Trời mưa từng trận gió từng hồi,
Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi.
Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ,
Đấu bèo vô dụng kết bè trôi.
Lao xao rừng cụm nghe chim chíp,
Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi.
Nỡ để dân đen trên gác yếu,
Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Than đạo

Ba vua năm đế dấu vừa qua,
Nối đạo trời rao đức thánh ta.
Hai chữ can thường dằn các nước,
Một câu trung hiếu dựng muôn nhà.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Căm lấy lòng nhơ mong thói bạc,
Trời gần chẳng gánh gánh trời xa

Thảo thử hịch

Tượng mảng:
Lẽ trời sinh vật;
Vật ấy nhiều loài.

Lấy câu thuận tính làm lành;
Thấy chữ nghịch thường mà ngán.

Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần;
Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.

Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin;
Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.

Lò tạo hoá nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà;
Thợ hoá công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?

Nay có loài chuột:
Lông mọc xồm xàm;
Tục kêu xù, lắt.

Tính hay ăn vặt;
Lòng chẳng kiêng dè.

Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề;
Đường qua lại đào ra hai ngách.

Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo;
Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liếng hơn cha khỉ.

Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên;
Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.

Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu;
Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.

Vả sáu mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm;
Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.

Cớ sao lại đem lòng quỷ quái?
Cớ sao còn làm thói gian tham?

Túi đông pha thường bữa tha gừng;
Ruộng nam quách ghe phen cắn lúa.

Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang;
Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.

Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan;
Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.

Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ;
Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.

Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu;
Lại quen lần mò ben vách.

Sách Lỗ sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời;
Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.

Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau;
Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.

Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang;
Chốn miếu đường là chỗ thanh tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.

Kẻ trinh nữ ghét thằng cuồng bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm;
Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.

Gối ngoã chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỷ quái chẳng chừa;
Gây phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hãy yêu tinh không gớm.

Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian;
Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhật là sao dữ.

Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử cục cứt ra cũng nhọn hai đầu;
Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc.

Tuy là tướng hữu bì hữu chất;
Thật là loài vô lễ vô nghi.

Luận tội kia đã đáng phân thi;
Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.

Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương;
Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.

Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô thước phanh phui;
Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng Hà ráo cạn.

Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm;
Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.

Tội dường ấy đã nên ác quá;
Ta tới đây há dễ nhiêu dung.

An tiên phuông nấy gã rắn rồng;
Phù tập hậu sai chim bả cắc.

Sắm sửa binh sương giáp sắt;
Trau giồi ngựa gió xe trăng.

Giống trống sấm xuất binh;
Phất cờ lau tập trận.

Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngạch u vi;
Đèn Lý Bạch đái tuỳ đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.

Hàng hàng bố liệt thương đao;
Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột.

Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ:
Cuốc xuổng đào hang, phảng mai chận ngách.

Trả, trách, nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm;
Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu.

Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành;
Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.

Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình;
Thiên hạ cũng vui câu án đổ.

Thất Kinh Châu

Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu,
Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu.
Thời Lưu chưa đạt hay sao đặng,
Vận Hớn còn suy giỏi mặc dầu.
Tiếc bấy công trình Gia Cát Lượng,
Uổng thay mỏi mệt Hán Đình hầu.
Nghĩ thương cái phận Lưu Huyền Đức,
Nhiều nỗi Đàn Khê dễ sá âu.

Thư gửi cho em

Thương tình bào đệ,
Gửi bức tâm thư.

Nghe em lăm toan việc tóc tơ,
Nên anh mới nhả lời vàng ngọc.

Hễ làm người có học,
Cho biết lễ trong nhà.

Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia,
Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự.

Ví dù muốn nơi nào thiếp nữ,
Thì hãy giao quyền tại chính thê.

Thuận chị em trên dưới gia tề,
Nghịch chồng vợ cửa nhà hư hại.

Trong phép xử gia môn đặng phải;
Ngoài tiếng đồn phong hoá mới xinh.

Lẽ cũng cho một gáo múc đôi chình;
Khuyên chớ để đôi rìu cuôi một cội.

Vả đang lúc sự đời bối rối,
Nào xiết lo nghiệp cả bâng khuâng.

Phận thiếp thê mà có như Tề nhân,
Niềm tử tức, thà không như Bá Đạo.

Em ôi!
May mà có mai cơm chiều cháo,
Hơn là người ăn tuyết nằm sương.

Ở nước loàn há sợ chữ thiên ương,
Theo đạo học phải dằn lòng nhân dục.

Ham sung sướng chẳng qua nuôi khẩu phúc,
E nghiêng nghèo còn nhọc đến thân danh.

Bậc quan quyền, chiếu bông gối dựa mới là vinh.
Hàng dân thứ, quần nhiễu, áo sô sao chẳng nhục.

Trau giồi lắm cho đẹp con mắt tục,
Ghen ghét nhiều lại chác cái tai phi.

Vậy thà cam hai chữ bố y,
Chi nhọc đến một điều mao ốc.

Bì sao kẻ thế gia vọng tộc,
Coi lấy người tiện sĩ bần nhu.

Thời thế nầy thà chịu làm ngu,
Học hành vậy cũng kêu là trí.

Em sao chẳng nghĩ!
Anh rất đỗi lo!

Bề ở ăn như cá núp trong nò;
Thân đùm đậu như én nằm trên gác.

Cám nỗi phụ huynh thêm bát ngát;
Phận làm tử đệ há nguôi ngoai?

Sung sướng chi mà chồng một vợ hai;
Giàu sang mấy mà quần đôi áo cặp?

Thân rảnh sao chẳng cấp;
Tính xấu cũng nên chừa.

Trời, không lường trưa sớm nắng mưa;
Người, đâu biết hôm mai hoạ phước.

Chi bằng:
Giữ câu kiệm ước,
Lánh bợm phong lưu.

Việc … oán hận chẳng nên cưu;
Thói ve vãn ăn chơi đừng bắt chước.

Hàng đi đứng tua dè nước bước;
Lời nói năng phải giữ miệng môi.

Phận áo cơm đã đủ thì thôi;
Ơn đất nước ngày an cũng tốt.

Bề ăn ở chi bằng đái chốt;
Dạ thảo ngay chí dốc keo sơn.

Có nghĩa tình anh Tấn em Tần,
Đừng nghe chuyện cha Hồ mẹ Hán.

Đọc sách y phương, cho biết án;
Làm thầy nho sĩ, phải theo tài.

Dược trị đau chớ khá học sơ sài;
Phép dạy trẻ chớ nên oai bẫm trợn.

Nghe nhiều kẻ tiếng đời nhơ bợn;
Muốn cho em mùi đạo thơm tho.

Khá nhớ lời gia giáo dặn dò,
Khuyên chớ để xử thân lầm lỗi.

Nay gửi vài lời huấn hối,
Xưa còn trăm chữ minh châm.

Nhớ để lời hôm sớm vịnh ngâm.
Hãy chữ dạ khỏi điều quá thất.

Trời bão

Phi liêm xe ngựa đóng phương nao?
Oai gió đưa ra nước bến trào.
Thổi thốc miếu chùa hơi vụt vụt,
Xô nhào cây đá tiếng ào ào.
Ai rằng đầm Lộc mê Ngu Thuấn?
Ta nhớ sông Tuy giải Hán Cao!
Một trận bão rồi bờ cõi sạch,
Trời thu như cũ mãi không xao.

Tú tài Chiểu tự thuật

Đã đành trôi nổi tấm thân bèo,
Mình nghĩ lòng mình dám nói leo.
Đánh xé sau khi cò mổ vọp,
Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu.
Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm,
Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu.
Chén rược xóm riềng cho cũng uổng,
No sau xin để mặt ăn heo.

Từ biệt cố nhân

Vì câu danh nghĩa phải đi ra,
Day mũi thuyền nan dạ xót xa.
Người dễ muốn chi nương đất khách,
Trời đà khiến vậy mến vua ta.
Một phương thà tránh đường gai gốc,
Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ.
Chén rượu ấm lòng xin cạn chén,
Nhớ nhau ngày khác biết sao mà.

Tứ dân – công

Hoá công máy móc ở đâu nà,
Trăm thợ nhân gian nghẻ ngóc ra.
Sáu tỉnh đua làm nghề khéo léo,
Năm châu sắm đủ của xây xoa.
Mẫu tuồng đơn kép theo hình thế,
Mỗi việc lâu mau tại ý ta
Máy tạo trong tay nào có vụng,
Chi lăm lương đống nước cùng nhà.

Tứ dân – nông

Trải qua nắng hạ lúc mưa thu,
Cày cấy ghe phen sức dãi dầu.
Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng,
Làm ăn giữ bổn mấy con trâu.
Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ,
Giỏi việc Mân phong nước chẳng sầu.
Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận,
Cứ trăm giống thóc một tay thâu.

Tứ dân – sĩ

Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng ngọc nào qua báu học trò.
Hoa trái rừng nhu ra sức hái,
Nghê kình biển thánh ráng công mò.
Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,
Mùi đạo trau giồi bữa bữa no.
Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách,
Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho.

Tứ dân – thương

Một câu thế lợi mở muôn nguồn,
Giàu có đua nhau việc bán buôn.
Các chợ sinh tài trăm họ nhóm,
Chiếc thuyền trực hoá bốn phương luồn.
Trái cân Yến tử không rơi dấu
Cuốn sách Đào công chẳng hết tuồng.
Chờ giá rủi may may gặp vận,
Ra vào biết mấy của nghìn muôn.

Tự thuật (I)

Mối tơ ai gỡ lúc này xong,
Một dải trời Nam biết mấy trùng.
Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó,
Người liều dạ sắt múa tay không.
Đến hay trung nghĩa theo tro bụi,
Hoài của giang sơn trút biển Đông.
Ơn nước, nợ nhà đành có thuở,
Biết bao chờ đợi, biết bao trông!

Tự thuật (II)

Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều,
Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu!
Dấu cũ gò bằng nền Hạ Vũ,
Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu.
Hứa Do ngơ mắt làm thằng mục,
Sào Phủ nghiêng tai giả chú tiều.
Thế vạy răn mình đừng có vạy,
Cờ mao chống chỏi chớ cho xiêu.

Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong

Hỡi ôi!
Tủi phận biên manh;
Căm loài dương tặc.

Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui;
Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!

Nhớ các linh xưa:
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa;
Thói giữ cương thường làm chắc.

Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu;
Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.

Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm;
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.

Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.

Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên;
Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

Khá thương thay!
Dân sa nước lửa chầy ngày;
Giặc ép mỡ giàu hết sức.

Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam;
Cực cho người vợ goá con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.

Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời;
Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.

Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than;
Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.

Trời hỡi trời!
Lòng nghĩa dân phải với ngô quân;
Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.

Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn;
Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?

Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.

Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.

Như vậy thì:
Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi;
Khi sau để trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ;
Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.

An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành;
Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.

Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình;
Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.

Thôi!
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm;
Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, luỹ kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.

Ôi!
Sống muốn cho an;
Thác sao rằng bức?

Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn;
Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.

Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình;
Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan;
Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.

Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương;
Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.

Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan;
So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.

Đến nay:
Cám cảnh Nam Trung;
Trách lòng tạo vật.

Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên;
Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.

Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh;
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.

Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn;
Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.

Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương;
Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm;
Người uống giận suối vào vàng lắm bực.

Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.

Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh;
Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.

Xưa nghe có bến sông Vị Thuỷ, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.

Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong;
Đọc bài văn tế quỉ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.

Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.

Văn tế Trương Định

Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng quân mắc hại.

Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm;
Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.

Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư;
Làm người chí đại.

Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên;
Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong;
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công;
Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.

Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang Sa;
Nhiều phương quỷ quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.

Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.

Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miếu đường;
Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.

Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.

Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi;
Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi;
Than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.

Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè;
Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.

Vương Lăng biếm Trần Bình

Chín đời còn thấy vận Cao hoàng,
Mặt mũi đâu mà vội dở dang.
Dưới suối há ngờ Lưu Cao Đế,
Trong thù nào có Lã ma vương.
Tranh tranh Hán thất gương còn để,
Phủ việt Xuân thu tội ắt mang.
Muôn một cũng liều thân với nước,
Cớ sao mà chịu ấn nương nương.

Xem bói

Trải xem thường chuộng báo thi quy,
Nồng nực mùi hương chúa Phục Hy.
Tám quẻ bố ra đường bí yếu,
Sáu hào xây để máy u vi.
Kiết hung muôn việc vài lời đoán,
Thời vận nghìn năm một lẽ suy.
Bày vẽ khắp trời đường hoạ phúc,
Nào con mắt tục mấy người tri

Trên đây là những bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu hay đặc sắc mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ cùng với bạn. Thông qua bài viết này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ, sáng tác của ông gồm nhiều thể loại, thể tài, trong đó thành công nghệ thuật nổi bật nhất là truyện thơ Nôm và văn tế Nôm. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân dân cùng những hình tượng nhân vật sinh động trong nhiều thể loại, khiến chơ ngòi bút của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.. Cũng như tư tưởng trữ tình và chất trữ tình trong thơ ông. Đừng quên đón đọc phần tiêp theo để cập nhật các bài thơ Nguyễn Đình Chiểu hay nhất bạn nhé!