Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa cận đại của Việt Nam sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và mất ngày 3 tháng 7 năm 1888 tại Ba Tri, Bến Tre.

Năm 1833, Nguyễn Đình Huy (cụ thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu) gửi Nguyễn Đình Chiểu cho một người bạn ở Huế để ăn học. Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Ông đã để lại cho đời một kho tàng văn học không phải là đồ sộ nhưng cũng đủ để người đời nhớ tên ông trong đó có tập Ngư tiều y thuật vấn đáp.

Qua Ngư tiều y thuật vấn đáp Nguyễn Đình Chiểu muốn chuyển tải một thông điệp đó là lương y của người thầy thuốc. Bởi trong bối cảnh của xã hội lúc bấy giờ nhiều người đã lợi dụng vụ lợi mà quên đi nhiệm vụ của người thầy thuốc là bảo vệ tính mạng của nhân dân. Bằng tư tưởng. nhân cách và tài hoa của mình Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện một cách thành công các sáng tác của mình.

Dưới đây, tapchivannghe.com  sẽ gửi đến các bạn Ngư tiều y thuật vấn đáp hồi 11.

Hồi 36

Ngư rằng: Sách gọi thuần dương,
Về phần con nít bệnh thường nhiệt dâm,

Đã thuần dương vô âm,
Sao còn phát lãnh trầm trầm cớ chi?
Môn rằng: Tạo hoá máy đi,
Âm dương nghĩa kín mấy suy đặng rành,
Chữ âm ấy thật âm tinh,

Âm tinh đâu có trong mình tiểu nhi.
Chừng nào thiên quý đến kỳ,
Tinh thông mới đặng sánh nghì dương âm.
Sách rằng thuần dương vô âm.
Thật câu chữ luận tinh âm chưa đầy.

Ấy nên bệnh trẻ thơ ngây,
So cùng người lớn chỗ gây chẳng đồng,
Bảy tình vốn chẳng hại trong,
Sáu dâm ngoại cảm cũng không luận tà.
Một mai có bệnh chẳng qua,

Kinh, cam, thổ, tả, tích hoà trường đông.
Cảm thời hàn, nhiệt, thử, phong,
Ngoại khoa: đậu chẩn, sang cùng đơn ban.
Vốn không tạp bệnh nhộn nhàng,
Có mười lăm chứng nguy nàn dễ coi.

Tử, sinh ngoài đã lố mòi,
Nào chờ chẩn mạch hợp coi quẻ dò.

Tiểu nhi nguy chứng thập ngũ hậu
(Mười lăm chứng nguy ở trẻ con)
Dịch nghĩa:
Trên mi mắt nổi tia đỏ,
Tia đỏ chạy suốt cả con ngươi,
Mỏ ác sưng phù lên,
Kể cả có khi trũng xuống,
Mũi khô đen xạm,
Bụng to nổi gân xanh,
Mắt thường trợn ngược,
Nhìn không chuyển con ngươi,
Móng chân, móng tay đen,
Đột nhiên mất tiếng,
Lưỡi thè ra ngoài miệng,
Nghiến răng, cắn người khác,
Thở gấp, miệng ngáp như cá,
Khóc không ra tiếng,
Giun quài ra mồm, mũi,
Ấy đều là những chứng chết.
Dù cho dùng thuốc cứu ngay,
Thì mười đứa cũng chết cả mười

Hồi 37

Tiểu nhi phát nhiệt trong mình,
Có mười sáu chứng trọng khinh khác thường,
Tuy rằng bệnh chứng nhiều phương,

Chẳng qua hư thực hai đường ấy thôi.
Chứng hư, chứng thực xét coi,
Sách đà rõ luận hẳn hòi chẳng sai.
Cho hay mười bệnh anh hài,
Chín hư một thực gái trai đều còn.

Ví như đầu tháng trăng non,
Lòng gương mới tượng, rạng tròn chưa ra.
Nên xưa làm thuốc nhi khoa,
Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư,
Cảm ơn liệt vị tổ sư,

Tấm lòng hoạt ấu nhân từ biết bao.
Chế ra làm tễ sẵn trao,
Bệnh nào thuốc nấy, uống vào thấy hay.
E sau thế tục nhiều thầy,
Chẳng thông y thuật hại bầy tiểu sinh.

Hỡi ôi học đạo Kỳ Huỳnh (Hoàng),
Mấy ai trị bệnh thẩm tình thực hư.
Xin coi phương sẵn Nhân Sư,
Đỡ cơn bệnh rộn tầm tư nhọc lòng.
Sau rồi rõ chước biến thông,
2600-Máy huyền phép diệu dù lòng sử đương.

Tiểu nhi bệnh chứng dụng dược ca
(Bài ca về việc dùng thuốc chữa bệnh trẻ con)
Dịch nghĩa:
Nghề y đã có riêng một khoa chữa bệnh trẻ con,
Phải nhớ kẻo khi cần không biết làm thế nào.
Sài giật, phát nóng cùng là ho có đờm,
Bảo mệnh đơn nhất thiết phải cho uống.
Cấp kinh, mạn kinh, hai chứng ấy phải dùng Tử kim đĩnh.
Sởi đậu chưa mọc, phải dùng thang Trợ vị,
Môi miệng bị lở, nên dùng thang Hoá độc.
Sốt liên miên, nên dùng Bảo long tinh tinh tán.
Nôn mửa, phần nhiều nên dùng Thiên châm hoàn.
Các chứng cam thường nên dùng Lô hội.
Các thầy thuốc nên nhớ, khỏi phải tìm tòi.

Lối này Ngư nói với Tiều:
Bấy lâu học hữu nghe nhiều phương hay.
Phận ta gặp bạn còn may,
Nhân Sư kết bạn lại hay dường nào.

Bạn thầy tài đức bậc nào,
Thầy theo chơi muộn, biết bao giờ về.
Môn rằng: chẳng những tài nghề,
Bạn thầy như ngọc chương khuê đức tuyền.
Ngươi, ta mong học hy hiền,

Thầy ta hy thánh, bạn nguyền hy thiên.
Bạn thầy mong học hy thiên,
Có nghe tên họ, đời truyền hai ông.
Hiệu xưng rằng Hưởng Thanh Phong,
Rằng Ảnh Minh Nguyệt, hai ông bạn thầy,

Thanh Phong cầm tiết chẳng day,
Bụi nhơ chẳng chút, so tày giá trong.
Lấy lòng tạo hoá làm lòng,
Cho người nghe tiếng khó mong thấy hình.
Thanh Phong vốn đã sạch mình,

Lại thêm Minh Nguyệt tài lành thú cao.
Tốt thay Minh Nguyệt thú cao,
Đường trong trời đất chỗ nào chẳng thông,
Lòng gương soi khắp non sông,
Đêm thanh cảnh vắng bạn cùng văn nhân,

Hai ông khí tượng tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân rõ ràng.
Ở theo một bậc thanh nhàn,
Lành trau đạo vị chẳng mang luỵ đời.
Thầy ta thường bữa ngâm chơi,

Khen hai ông ấy có lời thơ hay:

Hưởng Thanh Phong tự ngâm
(Nhập Môn tụng truyền)
Dịch nghĩa:
Tiếng ra đời bụi chẳng nhơ mình,
Người triết yêu ta một chữ thanh.
Nhẹ thổi chòi trời tan tiếng oán,
Sạch nồng đãy đất giúp hơi sinh.
Êm lòng Sào, Hứa chơi khe biếc,
Mát mặt Di, Tề ngó núi xanh.
Ba chục sáu cung đâu chẳng biết,
Đức làm quân tử đặng thơm danh.

Ảnh Minh Nguyệt tự ngâm
(Nhập Môn tụng truyền)
Dịch nghĩa:
Khỏi vòng hối thực thấy ra mình,
Đời tối trông ta một chữ minh.
Bóng thỏ ven mây lồng đất trắng,
Gương thiềm đáy nước vẽ trời xanh,
Ra vào chẳng nhọc người dong bước,
Tròn méo nào cho vật giấu hình.
Hai chục tám sao đều chạy mặt,
Theo thời biết mấy lúc hư dinh (doanh).

Hồi 38

Nhập Môn đọc mới dứt lời,
Phút đâu có khách tới chơi nói dồn.
Khách rằng: Nghe tiếng người đồn,
Chúa Liêu khiến sứ tới môn Đan Kỳ.

Sứ đem lễ rước Nhân Sư,
Về Liêu làm chức Thái y trong toà.
Nhân Sư xưng bệnh chẳng ra,
Chưa hay xưng bệnh ấy là bệnh chi.
Nhập Môn nghe nói sợ nghi,

Vội vàng ngày ấy liền đi thăm thầy.
Ngư, Tiều sắm lễ học thầy,
Đều theo Đường thị lối này đem đi,
Ba người lên chốn Đan Kỳ,
Gió nam riu thổi, vừa khi nắng chiều.

Trời tây cảnh vật buồn hiu,
Hồ sen ngút toả, non Kiều mây bay.
Nơi nơi tang giá bóng day,
Canh lui dặm liễu, mục quày đường lê.
Ngày chiều nhả bức hồng nghê,

Hươu vào động núi, hạc về đình xưa.
Ba người tới cửa vừa ưa,
Thấy người Đạo Dẫn đứng ngừa trước sân.
Cùng nhau gặp mặt chào mừng,
Đem vào tịnh thất vừa chừng hoàng hôn.

Ngư, Tiều cùng gã Nhập Môn,
Một đêm han hỏi chuyên tôn sư dài.
Dẫn rằng: Việc chẳng khá nài,
Nhân Sư bệnh, ở Thiên Thai lánh người.
Dạy ta thay mặt, đổi lời,

Về đây từ tạ sứ vời Tây Liêu.
Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu,
Xông hai con mắt bỏ liều cho đui.
Gặp cơn trời tối thà đui,
Khỏi gai con mắt, lại nuôi tấm lòng.

Nhập Môn nghe nói não nùng,
Trách rằng Minh Nguyệt, Thanh Phong phụ thầy.
Hai ông đã chẳng khuyên thầy,
Phần ngươi sao nỡ để vầy, không can.
Vả xưa lắm kẻ từ quan,

Ai từng ở ẩn lại mang tật sầu.
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu (Chu).
Ăn rau non Thú phải âu trọn mình.
Thà như Quỷ Cốc tiên sinh,
Gặp đời Chiến quốc thanh danh chẳng sờn.

Thà như bốn lão Thương Sơn,
Hồng bay phụng lánh, ai ràng buộc đâu.
Thà như hai họ Nghiêm, Châu,
Chẳng tham lộc Hán, cày câu mặc tình.
Thà như Ngũ Liễu tiên sinh,

Gặp cơn Tấn loạn giữ mình cũng xong.
Họ Đào Tể tướng sơn trung,
Chúa Lương khuất lễ mới dùng đặng va.
Họ Vương dạy học Phần Hà,
Buổi Tuỳ không đạo, ở nhà cũng hay,

Trúc Lâm là bọn đắm say,
Nước loàn bầu rượu còn hay che mình,
Rong chơi là bọn Lan đình,
Bụi Hồ chẳng đến nhơ hình chiếc ghe.
Sách nêu xử sĩ nhiều phe,

Hành tàng hai chữ ít nghe phụ lòng.
Vòng danh, xiềng lợi, thả dong,
Vật ngoài gió bụi, người trong tiên thần.
Thôi thời thôi vậy đành phần,
Làm chi cho khổ tấm thân mới từ,

Nghĩ nay khác thuở Yêu Ly,
Phòng toan khổ nhục kế kỳ trừ hung,
Há lo tiếng nhạc khó thông,
Như ông Sư Khoáng mà xông mắt mù.
Hỡi ôi tạo vật ở đâu,

Nỡ xui thầy mỗ chịu đau tật này.

Hồi 39

Dẫn rằng: Ta dốc can thầy,
Nghe thầy phân giải lời này rất hay.
Thầy rằng: Trời đất xưa nay,
Khí vần vốn có đổi xay chính, tà.

Xen hình hơi chính trôi ra,
Dưới là ngũ nhạc, trên là tam quang,
Nhờ hơi quang nhạc sáng đường,
Ở đời ngũ đế tam vương trị vì,
Ấy rằng khí vận thịnh thì,

Ba giềng năm dạy trọn nghì nhân luân.
Đến khi vận ách thời truân,
Ghe keo chằm Sở tạm lần châu đông.
Nối ra năm bá, bảy hùng,
Đua tranh công lợi, lấp dòng nghĩa nhân.

Ấy rằng quang nhạc khí phân,
Thánh hiền dấu tối, di luân rối nùi.
Khiến nên mọi rợ dể duôi,
Tôi loàn, con giặc, phanh phui sự đời.
Hơi tà ngăn bủa khắp nơi,

May còn hơi chính ở đời bao nhiêu,
Cho hay hơi chính chẳng nhiều,
Thời cùng mới thấy tiết nêu phẩm đề.
Kìa như cái giản nước Tề,
Ba phen quan sử nối đề “thí vua”.

Cám vua nước Tấn vô cô,
Chính làm ngòi viết Đồng hồ biên ra.
Làm cây chuỳ Bác Lãng Sa,
Trương Lương vì chúa đánh xa Tần hoàng.
Làm cây cờ tiết Tô lang,

Đất Nô đày đoạ trải đàng gian nan.
Chính làm đầu lão Nghiêm Nhan,
Thua thời chịu chém, chẳng hàng Trương Phi.
Chính làm máu nhuộm đế y,
Như ngươi Kê Thiệu cứu nguy chúa mình.

Chính làm cái lưỡi Cảo Khanh,
Thường Sơn chửi giặc, chịu hình cũng ưng,
Chính làm lỗ miệng Trương Tuần,
Tuy Dương mắng giặc tưng bừng đều kinh,
Gặp cơn Tam quốc chia giành,

Chính làm cái mão Quản Ninh sạch mình,
Gặp khi Bắc Nguỵ tiếm danh,
Chính làm lời biểu Khổng Minh xuất Kỳ.
Hoặc làm chèo Tổ Địch đi,
Qua sông thề dẹp Yết Đê mọi loàn.

Hoặc làm cái hốt họ Đoàn,
Đánh đầu kẻ hoạn mưu gian soán Đường,
Ấy đều hơi chính vấn vương,
Người làm oanh liệt một trường dấu ghi.
Đời suy người triết phù trì,

Nên câu “thiên trụ địa duy” vững vàng.
Đến nay người triết xa đàng,
Dưới trời hơi chính cũng tan lần mòn.
Thử xem trong cuộc nước non,
Bốn chia, năm xé, thon von dường nào.

Nhảy vòng phú quý lao xao,
Sớm tôi, tối chúa, ra vào gườm nhau.
Muôn dân ép ráo mỡ dầu,
Ngày trau khí giới, tháng xâu điện đài.
Thêm bầy gian nịnh chen vai,

Gây nên mọi rợ từ ngoài lấn trong,
Đánh nhau thây bỏ đầy đồng,
Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình,
Xừng xừng giành đất, giành thành,
Ngựa xe rần rộ, bụi binh tối trời,

Mây sầu gió thảm đòi nơi,
Sấm đông, tuyết hạ, khác đời trung nguyên,
Ấy rằng quang nhạc khí hôn,
Năm giềng ba mối rối dồn như tơ.
Dù sinh Y Phó đời giờ,

E khi cày ruộng cuốc bờ mà thôi.
Huống ta là kẻ không ngôi,
Tài chi lạy cúi làm tôi nước loàn?
Đã cam chút phận dở dang,
“Trí quân” hai chữ mơ màng năm canh.

Đã cam lỗi với thương sinh,
“Trạch dân”hai chữ luống doanh ở lòng.
Lại cam thẹn với non sông,
“Cứu thời” hai chữ luống trông thuở nào.
Nói ra thời nước mắt trào,

Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi.
Thời trời đã vậy, thôi thôi nào cầu.
Thà cho trước mắt mù mù,
Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân.

Thà cho trước mắt vô nhân,
Chẳng thà ngồi ngó sinh dân nghiêng nghèo,
Thà cho trước mắt vắng hiu,
Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phân xâm.
Thà cho trước mắt tối ngầm,

Chẳng thà thấy đất lục trầm can qua.
Dù đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha chẳng thờ,
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn nhơ tanh rình.

Dù đui mà đặng trọn mình,
Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu.
Sáng chi theo thói chiên cầu,
Dọc ngang chẳng đoái trên đầu có ai.
Sáng chi đắm sắc, tham tài,

Lung lòng nhân dục, chuốc tai hoạ trời
Sáng chi dua nịnh theo đời,
Nay vinh, mai nhục, mang lời thị phi.
Sáng chi nhân nghĩa bỏ đi,
Thảo ngay chẳng biết, lỗi nghì thiên luân,

Thấy rồi muôn việc trong trần,
Xin còn hai chữ “tâm thần” ở ta.
Nguyện cùng tạo hoá lại qua,
Làm xe, làm đạn, phận già thảnh thơi.
Kêu trâu, kêu ngựa mặc người,

Cánh trùng, gan chuột, theo trời phú cho.
Nói rồi Đạo Dẫn dặn dò,
Anh em ai nấy chớ cho lậu tình,
Nhân Sư dù đặng an mình,
Bọn ta lui tới sử kinh nhờ thầy.

Ngư rằng: Xin hỏi bạn thầy,
Thanh Phong, Minh Nguyệt, lối này ở đâu?
Hai ông là bạn đồng du,
Cớ sao nỡ để mắt mù Nhân Sư?
Dẫn rằng: Việc ấy hữu từ,

Hai ông bạn cũng vô như chi hà!
Hai ông thường nói cùng ta,
Khen rằng thầy ấy thật là triết nhân.
Như thầy chẳng những bảo thân,
Lại hay bảo đạo mười phân vững vàng.

Thánh xưa lời dạy rõ ràng,
“Nước an làm trí, nước loàn làm ngu”,
Từ xưa có kẻ cạo đầu,
Giả câm, giả dại, lánh xâu nước loàn,
Vả nay trời bước gian nan,

Thà không mắt thấy, khỏi mang dạ sầu,
Hoa Di mão dép lộn nhầu,
Mấy ai giữ phép Xuân Thu đặng rồi,
Chớ khinh mang tật đui ngồi,
Trời còn hơi chính gởi đôi mắt thầy,

Sau trời thúc quý tan mây,
Sông trong, biển lặng, mắt thầy sáng ra.
Khuyên ngươi lòng chớ sai ngoa,
Coi lời thơ tặng thầy ta hẳn hòi.

Minh nguyệt thanh phong
(hợp tặng nhân sư thi)
Dịch nghĩa:
Đang thuở tinh chiên giậm bấy đường,
Trăm nhà, mấy trọn dấu thư hương?
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Tần đế còn nhường danh họ Lỗ,
Hán vương đâu biết bệnh thầy Trương.
Thôi thôi đả vậy thôi thà vậy,
Một túi kiền khôn mặc mở mang.

Trên đây là các hồi tiếp theo mà Nguyễn Đình Chiểu viết trong tập Ngư tiều y thuật vấn đáp. Qua các hồi này ta có thể thu nhặt được nhiều kiến thức bổ ích liên quan tới y học. Cũng như các bài thuốc dân gian cứu người. Tuy nhiên ẩn đằng sau đó chính là câu chuyện của một nhân cách lớn và tình yêu nước nồng nàn trong từng câu chuyện. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo bạn nhé!