Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một nhà thơ, nhà văn hóa cận đại của Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc tuy nhiên cuộc đời của ông khá lận đận. Vào năm 1854 ông cưới Lê Thị Điền làm vợ. Bà là em gái út thứ năm của Lê Tăng Quýnh – là một học trò của ông. Vì đã cảm phục và mến thương thầy nên đã xin gia đình đồng ý. Và thời điểm này cũng chính là lúc ông sáng tác truyện thơ Dương Từ – Hà Mậu nổi tiếng. Dưới đây là hồi 4 trong tập truyện thơ mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết.

Họ Hà thấy nói ủ ê,
Rằng: Xin gắn vó trọn bề thuỷ chung.
Gượng đi tìm khắp các cung,
Vậy sau mới biết đạo tùng mà theo.
Chuông kia chẳng đánh sao kêu,
Đèn kia muốn tỏ, không khêu cũng lờ.
Dương Từ nghe phải, làm ngơ,
Gắng đi theo dõi trọn giờ cùng nhau.

Xiết bao mặt ủ mày châu,
Nghĩ trong phận sãi ruột sầu xót xa.

Đi vừa một đỗi xa xa,
Phút đâu bãi cát Hoàng Sa gần kề.
“Hoàng Sa” hai chữ bảng đề,
Mắt nhìn cảnh vật não nề, thở than!
Dàu dàu cỏ héo, hoa tàn,
Xơ rơ trên bãi cát vàng, buồn thay!
Gió âm hiu hắt lá cây,
Mưa tuôn bạc bạc, bóng mây mờ mờ.

Khắp xem bốn phía bụi bờ,
Éo le cảnh vật, dật dờ ở đây.
Nào hay làng xóm đông dầy,
Có nơi chợ búa, có bầy người ta.
Kêu tên rằng chợ âm la,
Người buôn, kẻ bán, cửa nhà rất đông.
Họ Hà chưa hẳn tấm lòng,
Hỏi: Sao âm phủ thói đồng dương gian?
Tạo Y tỏ vẻ mọi đàng,
Dương gian âm phủ, cơ quan cũng đồng.

Khác là khác việc hoá công,
Cõi bờ chữ “hạ”, chữ “trung” rõ ràng.
Sanh, thời ở cảnh dương gian,
Thác, về âm phủ là đàng xưa nay.
Họ Hà nghe nói rõ bày,
Hỏi thăm dòng họ chốn nầy chưa ra,

Đi vừa khỏi bãi Hoàng sa,
Tới nơi cửa ải thấy đà nên kinh.
Cho hay dưới cõi u minh,
Rất nhiều âm tướng, âm binh, nhộn nhàng.

Bài đề rằng “Quỷ Môn quan”,
Vô ra biết mấy mươi đàn tội nhân.
Người thời mắc tội vô luân,
Kẻ thời vô đạo, rần rần dẫn ra.
Lũ kia con gái đàn bà,
Đàn nầy trai tráng, ông già, xiết bao.
Chẳng hay dẫn tới ngục nào?
Nghe quân quỷ tốt miệng rao thẻ rằng:
Dương gian nhiều kẻ tham nhăng,
Trong nhà giàu có lòng hằng bất nhân.

Cho vay đặt nợ muôn phần,
Lợi trung gia lợi, khổ thân nhà nghèo.
Không tiền lại bắt về treo,
Khiến làm đầy tớ, ở theo việc nhà.
Gông cùm, trăng trói, dẫn ra,
Lăng xăng lũ bảy, đàn ba chật đàng.
Kia là thơ lại nhà quan,
Chuộng bề xảo trá, khoe khoang hơn người.
Trau giồi đao bút cho tươi,
Án sanh làm tử, cất mươi xàng xàng

Dắt người vào tội thác ngang,
Ham ăn của cải cho sang cửa nhà.
Nầy là công, cổ, chư gia,
Đều tham chữ “lợi”, lại hoà chữ “gian”.
Lợi, gian, hai chữ dấy loàn,
Nhà buôn, nhà bán, mắc nàn đã ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Ở đừng vô đạo, cũng đừ vô luân.
Đã làm vào tội bất nhân,
Dầu cho muôn kiếp, cái thân ra gì?

Tạo Y cầm cái thẻ đi,
Qua rồi cửa quỷ, kịp khi đến thành.
Bài đề rằng “Uổng Tử Thành”,
Ở trong rực rỡ cung đình nghiêm trang.
Đền son, gác tía lầu vàng,
Hẳn hòi để chốn Diêm quan trị vì.
Các nơi chúa ngục, âm trì,
Đến nơi chầu chực, án từ phán ra.
Tội nào đoán quyết, cho ra hành hình.

Biết bao nhiêu phạm tội tình,
Thác oan uổng tử, vong linh dật dờ.
Hồn thời mượn chúng đại thơ
Hồn thời đội trạng, đội tờ giấy không.
Đàn bà cho tới đàn ông,
Đem nhau quì chốn sân rồng thiếu chi.
Trâu, dê, heo chó đều đi,
Mồm thời cắn trạng vào quì Diêm quan.
Mới hay vật cũng chịu oan,
Thác không đáng thác, xương tan thịt lìa.

Hai người quỷ sứ đứng kề,
Kẻ thâu đơn trạng, người thì kêu rao.
Hai người chưa rõ lẽ nào,
Đem nhau tới chốn Án tào coi chơi.

Thấy quân quỷ sứ ba người,
Dẫn tới một người chưa biết tội chi.
Ở đời làm nghiệp thế y
Chú ruột Châu Kỳ, tên gọi Châu Phan.
Họ Hà nhìn thấy rõ ràng,
Hỏi rằng sao chú lầm đàng nơi đây?

Đáp rằng: Mang tội làm thầy,
Hốt lầm thang thuốc, hại lây mạng người.
Đạo ta đây có ba người,
Hãy còn ở cửa thứ mười xin ăn.
Một người tên gọi Hà Năng,
Thật người Hà Mậu kêu bằng ngôi ông,
Châu Phan lời nói chưa xong,
Quỷ đà kéo cổ vào trong Án tào

Lại nghe quỷ sứ lao xao,
Dẫn một người nào, đầu trọc mang gông,

Dương Từ xem thấy nghi lòng,
Lại gần vốn thật thầy trong chùa mình.
Hỏi rằng hoà thượng tu hành,
Cớ sao mà mắc tội tình chi đây?
Đáp rằng: Từ thuở chơi mây,
Am vân hôm sớm hằng vầy kệ kinh.
Chẳng may lâm bệnh xá sanh,
Chưa hay buổi ấy âm linh tội gì!
Nói rồi quỷ sứ dẫn đi,
Vào Án tào ấy một khi tra tường.

Án tào quỷ sứ phụng chương,
Đặng dâng bệ ngọc, Diêm vương ngự rằng:
Châu Phan là đứa vô ân,
Đành lòng chẳng tưởng mồ phần tổ tiên.
Mình sanh trong cõi trung nguyên,
Nở theo đạo mọi, bỏ duyên cương thường.
Lý ưng về nước Tây dương,
Cho con Thiên cẩu ăn gan, xé hồn.
Hiềm vì nghề nghiệp y môn,
Chẳng coi sách vở, làm khôn hại người.

Phó cho cầm cửa thứ mười,
Dẫn đi hành tội, cho người thấy ghê,
Hành rồi hoá kiếp làm dê,
Đủ năm mươi kiếp, đuổi về nước Tây.
Về Tây cho chó ăn mầy,
Hết đời thằng dại, làm thầy thuốc nhăng.
Dạ Xoa vâng lịnh phăng phăng.
Ngục mười dẫn lại giao thằng Châu Phan.

Diêm vương phán trước ngai vàng:
Rằng: Người Trần Kỷ sao chàng đi tu?

Tiếng xưa cững biết chữ nhu (nho),
Há không coi sách Xuân Thu dạy đời?
Ngoại di Trung quốc khác trời,
Phụ Nho, theo Phật, chuộng lời nam mô,
Mấy năm ở chốn Phù đồ,
Xưng rằng Hoà thượng, nói phô hoang đàng,
Của thời tam bảo ăn thường,
Ruộng thời sẵn có thập phương cúng dường.
Vả xưa Phật ở Tây phương.
Sống không biết lẽ cang thường là chi.

Luyện lòng hai chữ “từ bi”,
Việc nhà việc nước, biết gì tới ai.
Làm người sao chẳng theo loài?
Thảo cha ngay chúa, đoái hoài chi đâu!
Đành lòng cắt hẳn tóc râu,
Đã toan bất tử, lại âu bất thần.
Tội kia đã đến muôn phần,
Khó dung cho đó làm thân con người.
Trước cho bầy rắn cắn tươi,
Rồi sau cho hoá kiếp người làm trâu.

Hành cho chín kiếp rất lâu,
Để ăn rơm cỏ, dãi dầu tấm thân.
Dạ Xoa lãnh nạp họ Trần,
Đem giao chúa ngục ở phần sông Diêm.
Có quân quỷ tốt liền đam,
Dẫn qua Tào án còn giam nửa giờ.
Dương Từ theo khóc bơ vơ,
Rằng nay Hoà thượng biết nhờ cậy ai!
Kỷ rằng: Ta hỏi Thiện Trai:
Cớ sao xuống chốn âm đài, chuyện chi?

Thưa rằng: Tầm dấu Mu ni
Ngỏ xin khỏi tiếng thị phi trên đời.
Kỷ rằng: Trốn lánh việc đời,
Đã đành lỗi đạo cùng trời đất kia.
Ngàn năm trong cõi thiền kia,
Lấy ta làm một tấm bia để đời.
Người về xin gởi vài lời,
Nói cùng tăng sãi các nơi chùa chiền.
Trở về theo đạo thánh hiền,
Lo bề nhà cửa, chớ nguyền đi tu.

Tu chi mắc kiếp làm trâu,
Lại xô xuống cầu, cho rắn phân thây.
Nói rồi quỷ sứ dẫn đi,
Dương Từ chi xiết sầu bi nỗi thầy.
Châu Phan nói: “Họ Hà nầy,
Thấy vầy nên lại giã từ Giu Di.
Ngươi về nhắn với Châu Kỳ,
Đem kinh tả đạo đốt đi cho rồi.
Ba đời công uổng thời thôi,
Thuận theo đường chánh, trau giồi đạo Nho.

Đạo Nho là đạo trời cho,
Sử Hiền, kinh Thánh, mấy pho dạy đời.
Chớ tin theo đạo Chúa Trời,
Ngày sau lại hoá kiếp người làm dê.
Làm dê chẳng trọn một bề,
Hành rồi hết kiếp, cho về nước Tây.
Về Tây cho chó ăn thây,
Dứt trong căn số cái bầy Gia tô.
Gởi cho hai chữ “cải đồ”
Để đời con cháu khỏi vô lạc đàng”.

Đương phô quỷ sứ đánh ngang,
Dẫn tới ngục đàng, chịu phép khảo tra.
Châu Phan sùi sụt bước ra,
Họ Hà thấy vậy xót xa phận mình.
Tạo Y quỷ sứ có tình,
Đem qua các chốn ngục hình xem coi.
Bài đề hai chữ “Phong Lôi”
Ngục nầy để trị bầy tôi gian tà.
Hung thay quỷ tốt Dạ Xoa.
Bắt bầy tôi nịnh đem ra hành hình.

Tay chân đều có đóng đinh,
Nằm trên tấm thớt loã hình trần phơi.
Người giăng nằm giữa ngó trời,
Người thời nằm sấp khắp nơi rẽ ròi.
Phút đâu một tiếng âm lôi,
Nổ ra sấm sét đánh bồi trên thây.
Trước sân lai láng máu đầy,
Tan xương nát thịt, cái bầy quân gian.
Coi tên: Đề thuở Hán Đàng (Đường).
Thập Thường Thị ấy với đoàn hoạn quan.

Hành rồi sái phép linh đan,
Thân hoàn hồn phách, lại hoàn ngục giam.
Cũng vì một tấm lòng tham,
Sâu dân mọt nước, đều làm chẳng công.
Làm tôi mang chữ bất trung,
Phép trong trời đất chẳng dung đứa nào.

Coi rồi cửa ấy tù lao,
Coi qua cửa khác những nào tội nhân.
Bài đề hai chữ “Hoả Quân”
Ngục này trị kẻ vô luân, loạn thần.

Cột đồng cắm đứng trước sân,
Chế dầu lửa đốt rần rần như giông.
Lửa xe chói đỏ cột đồng,
Dạ Xoa dắt tới đàn ông một đàn.
Tay cầm roi sắt đánh, phang,
Khiến xông vào đó ôm ngang cột đồng.
Thịt xương chói đỏ theo đồng,
Khói bay tanh khét, như xông a nguỳ.
Coi vào trong thẻ án ghi,
Họ tên lũ ấy một khi mới tường,

Thảy đều mắc tội hoà gian,
Vợ người đã lấy, còn toan giết chồng.

Coi rồi phía tả đàn ông,
Ngó qua phía hữu, rất đông đàn bà.
Trước sân đem vạc dầu ra,
Dầu sôi sục sục, lửa ra dần dần.
Một bầy phụ nữ truồng trần,
Buộc vào để đứng loã thân chịu hình.
Dạ Xoa cưa, kéo nên kinh,
Cưa đầu tới đít, rã mình làm hai.

Lòng hai người cũng chia hai,
Bỏ vô dầu nấu, nấu hoài cho tiêu.
Coi vào trong thẻ án nêu,
Họ tên lũ ấy thảy đều dâm bôn.
Thông gian mình nghĩ rằng khôn,
Ở đời chẳng sợ tiếng đồn ô danh.
Coi chồng như đứa vô tình,
Ngày đêm những mảng rập rình cùng trai,
Chê cười cũng trối thây ai,
Kiếm lời che mắt, lắp tai thằng chồng.

Dầu cho dại cũng là chồng,
Lỏng sao giám nói nó không biết gì?
Rõ ràng chứng có tứ tri,
Việc trong buồng kín, âm trì lại biên.
Giết chồng có phép nước chuyên,
Âm thầm có phép cửu tuyền cưa hai,
Cho hay những tội lấy trai,
Thiên tru, địa lục, ai ai nên chừa.

Tạo Y thấy vậy chẳng ưa,
Xem qua ngục khác, phép ngừa đứa gian,

Bài đề hai chữ “Kim Cang”.
Ngục này để trị những đàn bất nhân,
Mấy thằmg trộm cướp sát nhân.
Cối đồng xay giã, tấm thân nát nghiền.
Làm con chẳng thảo, chẳng hiền,
Mình treo cần sắt, cung liền bắn lên.
Bắn cho văng thịt nhiều tên,
Hỏi ơn cha mẹ đã đền đặng chưa?
Mấy người ăn nói thiếu thừa,
Bắt kềm kéo lưỡi đưa ra khỏi hàm.

Kể sao xiết nỗi gian tham,
Dạ Xoa cứ phép đều đam hành hình.

“Kim Cang” đến cửa đã đành,
Cửa mười cũng nối sẵn dành theo đây.
Bài đề “Minh Lịnh” ngục nầy,
Để trị các bầy bại lễ, loạn luân.
Loài người ăn ở bất phân,
Anh em lấy bậy, bất phân làm người.
Trẻ già nào trọn mấy đời,
Âm thầm chẳng biết hổ ngươi cùng trời.

Mây mưa quen thói nhớp đời,
Bà con nào kể, lẽ trời nào kiêng,
Dạ Xoa theo án xử liền,
Bắt đoàn con gái ghe phen hành hình.
Kẻ thời đội chảo máu tanh,
Ngồi bàn chông sắt, nhóm đoanh ruồi lằng.
Kẻ thì bưng mẻ dòi ăn,
Người bưng máu uống, chưn trăng, cổ xiềng,
Giường đồng lạnh lẽo để liền,
Bao nhiêu tội ấy thay phiên bắt nằm.

Trên đầu dội nước ướt dầm,
Sương sa lạnh lẽo, ruột tằm héo don.
Lạnh lùng xương thịt hao mòn,
Để chi nhơ nhuốc nước non trên đời.

Trải qua xem thấy khắp nơi,
Dương Từ, Hà Mậu buông lời hỏi han.
Hỏi rằng: Các tội ngục đàng,
Hành rồi một thứ, lại hoàn nguyên thây.
Chẳng hay hoàn lại làm chi?
Hoặc là hết tội, đợi kỳ tha chăng?

Tạo Y quỷ sứ đáp rằng:
Âm hình há dễ một lần mà xong!
Giết đi hoàn lại, lòng dòng,
Ngục này hết phép, còn vòng ngục kia.
Hành cho khắp hết cửa bia,
Đem về Toà án, mới chia kiếp đầy.
Đứa lên làm kiếp ăn mày,
Thằng kia kiếp chó, con này kiếp heo.
Dầu muôn kiếp cũng noi theo,
Mãn thân súc vật; máu đeo dao người,

Tạo Y chưa nói dứt lời,
Thấy quân quỷ tốt tới nơi nhộn nhàng.
Dẫn đi một lũ bóng chàng,
Áo quân rách nát, đều mang gông xiềng.
Họ Hà buông tiếng hỏi liền;
Chẳng hay lũ ấy sổ biên tội gì?
Đáp rằng: Tội chẳng nhẹ chi,
Ở trên dương thế hay khi thánh thần.
Miếu đường là chốn thanh tân,
Trống xây, giọng lý, tiếng rân cầu mời.

Bà tiên, bà Chúa, đặt lời,
Chàng Năm chàng Bảy, lên chơi giới hiền.
Rập rình đàn, địch, cổ, chiêng,
Cơm tiền đã tốn, dầu đèn lại hao.
Ai lên khấn vái, phước trao,
Ai quên cúng quảy, hoạ vào khi không.
Quạt chơi, ợ, ngáp, lên đồng.
Dối người giàu có rằng ông quở chàng.
Chè xôi gà vịt, đặt bàn,
Cho ta dâng lễ, mới an cửa nhà.

Tội kia khi hoặc người ta,
Phong lôi ngục nọ đem ra hành hình,
Họ Dương lại hỏi đinh ninh
Bóng chàng dường ấy đã đành tội kia.
Chẳng hay thầy thuốc tội chi,
Kìa quân quỷ tốt dẫn đi đông dầy?
Đáp rằng: Thầy thuốc chẳng hay,
Bịnh không biết mạch đặt tay coi chừng.
Lòng quen cưu thói bất nhân,

Nhà giàu thời hốt “bát trân”, “thập toàn”.
Nhà nghèo thời hốt thuốc ngang,
Tử tô, kinh giới, ma hoàng, quế chi.
Mười hai kinh lạc kể gì,
Bốn mùa vận khí xây đi, mặt trời!
Đau trong tạng phủ thây người!
Thấy tiền đem tới, miệng cười, lòng vui.
Chín trăm phương thuốc xa xui,
Hai ba mươi vị phanh phui đủ làm.
Một pho Thọ Thế lam nham.
Nhìn đâu hốt đó, chẳng ham sách nào.

Làm hoàn, làm tễ, hỗn hào,
Thuốc sâu, thuốc mọt, trộn vào mật ong.
Mạng người coi rẻ bằng lông,
Uống may: thời khá; rủi: không chi thầy.
Khoe mình dao thuốc liền ngày,
Oan hồn theo khóc dầy dầy sau chơn.
Tưởng là trộm cướp bất nhơn,
Ai hay thầy thuốc dữ hơn cọp nhiều.
Tội kia đã đáng đem treo,
Kim cang ngục nọ, xử theo án đồ.

Họ Dương lại thấy dẫn tù,
Mụ bà một lũ u đồ đi ra.
Lặng nghe kể tội mụ bà,
Quỷ cầm thẻ án, trước đà rao rân.
Rao rằng: Làm mụ bất nhân,
Khiến người sanh đẻ tấm thân mắc nàn.
Vả trời phú tánh đã an,
Có cho ai ngược, ai ngang, bao giờ?
Bào thai đã định ngày giờ,
Mười trăng chưa đủ, phải chờ mới nên.

Vợ người chuyển bụng đau rên,
Mụ bà chẳng hỏi nhớ, quên, tháng ngày.
Lên giường vội vã ra tay,
Rằng: Ta sửa bụng cho quày đầu ra.
Vài giờ chưa thấy sổ ra,
Thọc tay lỗ đẻ, sờ mà thăm coi.
Coi rồi chẳng thấy lỗ mòi,
Khiến xui hốt thuốc giục đòi cho mau,
Dối rằng: gần lố mào cau,
Bảo người rán rặn làm nao đẻ đùa.

Hai tay bóp bụng đẩy xua,

Thấy lâu rồi lại thăm vô cửa mình.
Chúc nguyền bà chúa thai sanh,
Đức thầy, đức mụ, thần linh giúp cùng,
Làm tuồng chộn rộn sợ lung,
Chủ nhà van vái tứ tung binh tàng,
Khiến con trong bụng chẳng an,
Ngặt mình nên phải tìm đàng chun ra.
Chõi, quày, chưa kịp hạ sa,
Mụ bà tay chận, kéo ra vội vàng,

Những đồ đi ngược đi ngang,
Cũng vì tay mụ, lòng toan sanh cầm.
Dân ngu chẳng biết lỗi lầm,
Vì ai khuấy rối lẽ trời
Khiến nên èo uột, ra vời chẳng lâu?
Người khôn cũng mắc rầm rầm nhiều nơi.
Lẽ thời tội đáng chém đầu,
Thứ dung cho nó xuống cầu một cây.

Mậu rằng: Nhờ cớ sự nầy,
Đẻ đừng kêu mụ, rước thầy được chăng?

Tạo Y quỉ sứ đáp rằng:
Coi trong sách thuốc có bằng luận minh.
Tiếp sanh lại với thâu sanh,
Tiếp, thâu, hai chữ, là danh mụ bà.
Chờ con trong bụng sổ ra,
Ãm bồng, lau rửa, ấy là phận ta.
Xưa nay làm phận đàn bà,
Tới ngày sanh đẻ, như hoa trên cành.
Hoa kia nở nhuỵ có chừng,
Đàn bà chửa nghén thời đừng sợ chi,

Thú cầm là loại vô tri,
Tới chừng chuyển bụng, mụ gì sửa cho?
Làm người chẳng biết so đo,
Cứ toan theo mụ, rủi ro cho mình,
Gẫm vật hoá hoá sinh sinh,
Máy trời có sẵn trong mình người ta.
No ngày, khảm tháng đẻ ra,
Mẹ con mạnh khoẻ, thầy bà làm chi?
Miễn cho giữ nết đứng đi,
Theo bề ăn ở, đừng khi thánh thần,

Dầu cho đẻ mấy mươi lần,
Dễ hơn súc vật muôn phần, nào lo?

Đây đà dứt việc hỏi phô,
Đem nhau tới chốn Phong đô tách vời.
Ra đi tới cửa thứ mười,
Lại gặp ba người quân dẫn đi xin.
Họ Hà dừng bước đứng nhìn,
Một người hình dạng thật in ông mình.
Hà Năng chợt thấy hãi kinh,
Vừa mừng vừa khóc thình linh nói ra:

Hỏi rằng: Hà Mậu cháu ta,
Hỏi rằng: “Hà Mậu cháu ta,
Ngày nay xuống chốn Diêm La việc gì “
Thưa rằng: “Tìm đạo Giu di,
Xin cho rõ việc thị phi làm người”.
Năng rằng: “Chớ nói hổ ngươi,
Một dòng kể đã năm đời tha bang.
Tin lầm hai chữ Thiên Đàng,
Bơ vơ đất mọi, lỡ làng công phu.
Cho hay sự dĩ đáo đầu;
Chưa về cõi thọ ai hầu biết khôn.

Cao tằng tổ khảo các hồn,
Bị con Thiên cẩu đều chôn vào lòng.
Nói ra, nước mắt ròng ròng,
Nay còn thân cháu hãy mong tìm gì?
Nước Tây ông đã trốn đi,
Về đây lại mắc Âm Ty giam mình.
Bấy lâu cầm ở ngục hình,
Một mình chịu khổ, sự tình xiết bao,
Đã không tiền bạc theo tao,
Cũng không dòng họ người nào ở đây,

Gặp nhau chưa hết tình bày,
Tạo Y quỉ sứ kéo ngay ra về.
Rằng: Mười giờ hết phải về,
Dùng dằng đây nữa khó bề hồi dương,
Nói thôi trở gót vội vàng,
Họ Hà, Ông, cháu, hai đàng phân ly,
Năng rằng: Cháu hãy về đi!
Nói cùng các họ một khi cho tường.
Thôi thôi bỏ đạo Hoà Lan,
Sau dầu khỏi chó Tây dương ăn hồn.

Khá mua vàng bạc đốt dồn,
Cho ông ra khỏi cái phồn ăn xin”.
Nói thôi hối cháu trở lên,
Cám thương Hà Mậu chẳng quên mọi lời.

Thứ nầy đến chuyện trên đời,
Dương Từ, Hà Mậu, về nơi Tiên đài.
Lão Nhan ở núi Thiên Thai,
Ngồi chùa Linh diệu, hôm mai đợi chờ.
Đánh tay đã đủ mười giờ,
Đốt phù làm phép, như xưa hoàn hồn,

Dương Từ, Hà Mâu hai hồn,
Thinh không tỉnh dậy, lạy tôn sư rồi,
Họ Hà thưa việc luân hồi,
Rằng: “Nay mới rõ đạo tôi Tây tà,
Ngàn năm trong cõi người ta,
Đã đành một nỗi ông cha lầm đàng”

Thầy rằng: Đã thấy rõ ràng.
Ta phân gốc ngọn hai chàng đặng hay,
Dương di ở nước phía Tây,
Ham đàng giàu có, chuộng bày khéo khôn.
Dùng câu “cơ trí đa môn”
Dầu muôn việc cũng máy khôn đua làm.

Lòng trời ghét thói gian tham,
Sai con Thiên cẩu xuống phàm làm ương.
Liền năm theo nước Tây dương,
Ăn hồn cái lũ bội thường nghịch thiên.
Lòng vua lo sợ khấn nguyền,
Chiêm bao nằm thấy linh thiêng điềm thần.
Rõ ràng một kẻ phụ nhân,
Một người nam tử khoả thân chịu hình.
Nói ra mới biết tính danh,
“Chúa Trời, Đức Mẹ” tỏ tình khắp nơi.

Nói rằng Chúa ở trên trời,
Vì dân chịu tội, muôn đời nhờ an.
Nương theo điểm ấy bày đàng,
Mới kêu rằng đạo Hoà Lan phụng thờ.
Từ theo đạo ấy đến giờ,
Hoạ con Thiên cẩu cũng nhờ ít ăn.
Một năm cho nạp một lần,
Trăm năm hồn hoá, làm phần nhương tai.
Vua Tây lo việc lâu dài,
Hồn đâu cho đủ nạp hoài liền năm.

Cùng nhau toan chước lo thầm,
Khiến người các nước đều lầm nghe va.
Đặt lên các chức nhà Cha,
Cho đi dạy đạo gần xa phỉnh người.
Bùa mê thuốc lú đổi đời,
Lòng người đều mắc vào nơi Tây tà.
Sống thời kêu nó bằng Cha,
Thác thời lại bắt hồn ma đem về.
Có hồn thuế nạp rất xuê,
Nước Tây mới đặng khỏi bề tai ương.

Chước khôn chẳng những một phương,
Muốn gồm muôn nước theo đường làm tôi.
Dân người về đạo Tây rồi,
Nước người Tây lấy mấy hồi nhọc lo!
Khôn dầu tránh khỏi bẫy dò,
Lại đem nha phiến bán cho hút ghiền.
Nằm co, ôm ống nồi liền,
Nào rồi toan chước đánh Phiên, dẹp loàn”
Họ Hà nghe nói rõ ràng,
Chạnh thương đời trước, hai hàng luỵ rơi.

Họ Dương quì lạy buông lời,
Hỏi rằng: Đạo Phật ở đời tin chăng?
Tôn sư chúm chím cười rằng Thói đời những mắc đạo xằng đua bơi,
Từ xưa trời tách ra đời,
Ba vua, năm đế, nối đời rất lâu.
Từ ngày có Phật đến sau,
Đến đời ngũ Quí hại nhau bời bời,
Nên hư, gương ở các đời,
Coi vào thời thấy, phải lời bàn chi?

Dương, Hà, hai gã liền quì,
Hỏi rằng: Nho đạo dám bì tiên chăng?
Tôn sư thong thả đáp rằng:
Đạo tiên cũng ở trong hằng đạo nho.
Đạo tiên theo việc nhàn du,
Dạo chơi non nước, chẳng cầu công danh.
Đạo nho lo việc kinh dinh,
Giúp trong nhà nước cho minh cương thường
Tiên xưa ở chốn thơ đường,
Một câu nho giáo, lòng càng chẳng quên,

Muốn theo tiên đạo cho bền,
Phải tòng nho đạo mới nên phận mình,
Hai người đều khá hồi trinh,
Đạo nào làm phải mặc tình ráp theo,

Thưa rằng chút phận cheo leo,
Non xanh, nước biếc, xin theo đạo thầy,
Thầy rằng một cõi tiên nầy,
Tiền duyên chưa dứt ở đây khó bề.
Sao sao cũng phải trở về,
Sửa sang nhà cửa trọn bề sẽ hay.

Hai người đồng tiếng thưa thầy,
Rằng: Xin ở lại vài ngày cõi tiên.
Tôn sư hối Lý tri Niên,
Dạy đem hai gã dạo miền Thiên Thai,
Trải qua mấy chốn lâu đài,
Coi thơ tiên cảnh tám bài, thú xưa.

I. Vịnh Sĩ Thú
Long gồm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng ngọc nào hơn báu học trò?
Cây trái rừng nho ra sức hái,
Lố gành biển thánh ráng công mò,
Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,
Đạo vị trau giồi bữa bữa no,
Gặp thuở mày xanh ngồi đọc sách
Một nhà đều hưởng lộc trời cho.

II. Vịnh Nông Thú
Trải khi nắng hạ, lúc mưa thu,
Cày cấy ghe phen sức dãi dầu,
Cúi ngửa nương theo vài đám ruộng,
Làm ăn giữ vốn mấy con trâu.
Theo nghề Hậu tắc nhà không đói,
Chuyên việc Mân phong nước chẳng sầu,
Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận,
Năm trăm giống thóc một tay thâu.

III. Vịnh Y thú
Một túi linh đan chẳng ráo hơi,
Trong tay thường cứu mạng người đời.
Năm mùi tánh dược ngày xem xét,
Trăm trứng thang danh bữa đổi dời.
Bịnh tới, chẳng câu người khó đói,
Mạch coi, liền ngán kẻ ăn chơi
Xưa lời quốc thủ khen rằng phải,
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời.

IV. Vịnh Bốc Thú
Trải đời thường chuộng báu thi qui,
Phưởng phất mùi hương chúa Phục hy,
Tám quẻ khai ra đường bí yếu,
Sáu hào xây để máy u vi.
Cát, hung, muôn việc vài lời đoán,
Thời vận ngàn năm một lẽ suy.
Bày vẽ tháp trời, hang đất đó,
Những con mắt tục mấy người tri,

V. Vịnh Công Thú
Hoá công máy móc ở đâu nà,
Trăm thợ nhân gian mọc nảy ra,
Sáu phủ đua làm nghề khéo léo,
Năm hành sắm đủ của xây xa.
Màu tuồng đơn kép theo hình vật,
Mọi việc lâu mau mặc ý ta.
Máy tạo trong tay nào có vụng,
Chí lăm nên giống nước cùng nhà.

VI. Vịnh Thương Phú
Một câu thế lợi mở muôn nguồn,
Giàu khó theo người việc bán buôn
Các chợ sanh tài trăm họ nhóm,
Mấy ghe hoá trị bốn phương ruồng.
Trái cân Yến Tử còn roi dấu,
Quyển sổ Đào Công chẳng mất tuồng,
Chờ giá một mai may gập vận,
Ra vào biết mấy của ngàn muôn.

VII. Vịnh Ngư Thú
Ai nói rằng nghề hạ bạc hư?
Chớ chê chài lưới thói bần xừ,
Biếng theo ông Lữ câu danh lợi,
Sánh với thầy Viên bói thuỷ ngư,
Gánh cá giang hồ trăm chợ đủ,
Chiếc thuyền phong nguyệt bốn mùa dư.
Trọn nhờ lọc nước vui ngày tháng,
Giềng mối trong tay giữ chặt khư.

VIII. Vịnh Tiều Thú
Thánh nhân còn gọi kẻ sô nghiêu,
Người chớ nên khinh thói lão tiều,
Ngày tháng nghinh ngang vài gánh củi,
Núi non dọn vén một tay rìu,
Lộc rừng cũng đủ bề hôm sớm,
Nghề cũ nào lo vốn ít nhiều.
Theo vận vui trời, nhờ cán búa,
Mặc đời Kiệt, Trụ, mặc đời Nghiêu.

Coi rồi tám thú thơ hay,
Họ Hà ngẫm nghĩ bèn day hỏi liền,
Hỏi rằng: Đây vốn cảnh tiên,
Cớ sao chuộng thói theo miền phàm dân?

Niên rằng: Một gốc thiên dân,
Người tiên sánh với phàm trần đâu xa.
Từ trong tám thú trở ra,
Việc đời rồi rảnh ấy là thần tiên,

Hai người theo Lý Tri Niên
Ở Trong Vân động kết nguyền đồng tâm,
Ngày ngày thong thả ca ngâm,
Cùng nhau vui thú quỳnh lâm, dao trì,

Lối nầy tới lối Châu Kỳ,
Chạnh lòng nhớ bạn cố tri họ Hà,

Liền năm liền tháng tới nhà,
Hỏi thăm tin tức, lâu đà thon von.
Liễu nương ở với hai con,
Mượn người tìm khắp nước non mọi đàng.
Long môn từ vắng mặt chàng,
Tình nhà man mác, lòng nàng héo don.
Lìa nhau đã tám năm tròn,
Trông chồng đã mỏi, thấy con thêm sầu,
Tuổi già mà lại hay đau,
Tắt hơi khó nỗi ngồi lâu chờ chồng,

Châu Kỳ thang thuốc giúp công,
Số trời khôn cải, hết lòng thời thôi.

Liễu nương từ thuở thác rồi,
Hai con tám tuổi, mồ côi nhà nghèo.
Cậu, cô, ép uổng khiến theo,
Đọc kinh xem lễ giữ lèo lái xưa.
Tuyết, Băng, lòng vốn chẳng ưa,
Chị em giữ phận đẩy đưa tiếng người,
Nói rằng: Theo đạo năm đời,
Trong khi nào thấy có lời chi hay,

Cha già đi mất lâu nay
Đức Bà, đức Chúa thấy bày vẽ chi.
Đọc kinh xem lễ làm gì?
Ơn cha chẳng đoái, còn ghi đạo nào?

Cậu, cô, ghét tiếng cầu cao,
Bỏ điều đói rách, lẽ nào trối thây!
Chị em hẩm hút qua ngày,
Trời sanh trời dưỡng, xày xày cũng xong.
Châu Kỳ thấy cũng động lòng,
Liền cho tiền gạo để phòng nuôi nhau.

Chị em bàn luận cùng nhau,
Việc cha thuở trước họ Châu nói liền.
Rằng: Cha theo Lý Tri Niên,
Đem đi tìm đạo cảnh tiên non Bồng.
Vả đây lên chốn non Tùng,
Đường đi hiểm trở, hầu mong cũng gần,
Muốn cho đặng chữ “hiến thân”,
Phải đi lên đó một lần cho hay.
Tìm cha thời phải hỏi thầy,
Mất còn cho hẳn, lòng nầy mới an,

Chị em cơm nước sửa sang,
Nhằm chừng Tùng lãnh băng ngàn phăng phăng.
Cám thương Xuân Tuyết, Thu Băng,
Tuổi còn thơ ấu, nhọc nhằn xiết bao!
Tìm cha nên chốn non cao,
Kể nào thú dữ, màng nào thảnh thơi.
Chị em đi quá nửa ngày,
Hỏi thăm chẳng thấy, trở quày lộn ra,
Hai bên cây đá giao hoà,
Trong non nào thấy cửa nhà chi đâu,

Đường chim dấu thỏ, luôn nhau,
Chị em ngơ ngẩn khôn cầu đường ra,
Non đoài bóng ác hầu tà,
Cùng nhau lần bước đi qua Thạch bàn.
Thạch bàn lại có khe ngang,
Mở cơm ăn uống, rồi toan hỏi người.
Dưới chân đau mỏi khôn dời,
Cùng nhau lẩn thẩn, phút trời hoàng hôn.
Khóc than tiếng dậy như cồn,
Kêu rằng: Cha hỡi! linh hồn ở đâu?

Chứa chan muôn thảm ngàn sầu,
Hai con sống thác, ai hầu biết cho?
Dắt nhau lên đá nằm co,
Khóc rồi lại ngủ, biết lo phương gì.

Non cao cây cối rậm rì,
Nằm queo lại ngủ, gặp kỳ đêm đông.
Thương thay! Sương tuyết lạnh lùng,
Năm canh đá gối, sương mùng, xiết bao!
Bóng trăng vừa thấy lên cao,
Một bầy thỏ bạch nhảy vào mừng vui.

Nằm khoanh trên đá nối đuôi,
Bao nhiêu sương tuyết, lông chùi sạch trơn.
Đêm đông hơi ngáy tợ đờn,
Chị em giấc ngủ nhờ ơn đăng bền,
Vầng ô vừa lố bóng lên,
Giựt mình trực thấy, thỏ bên nhảy liền,
Ngày sau việc ấy sách biên:
Tướng tinh mộng nguyệt; kết duyên Dương Hà.
Mặt trời vừa lố sáng ra,
Chị em lòng đói, xót xa phận mình.

Chim đâu bay tới thình lình,
Xanh lông, đỏ mỏ như hình sơn son.
Đậu trên đầu đá hai con,
Trái đào, mỏ gắp quăng lòn xuống cho.
Chị em cầm ngửi thơm tho,
Nhờ ăn đào ấy, đặng no tấm lòng.
Chưa hay đi đặng cùng không,
Đoạn sau mới biết cùng, thông, mọi đàng.

Thứ này tới chuyện Tấn vương,
Sửa sang nhà nước, bốn phương vững vàng.

Buổi chầu đông mặt bá quan,
Hai bên văn võ đều bàn việc dân.
Có quan Bảo giá họ Tần,
Quì dâng lời sớ ở phần Dự châu.
Tấn vương xem thấy lòng sầu,
Mới hay một trấn Dự châu mất mùa.
Phán rằng: Nghiêu, Thuấn, làm vua,
Chín năm nước lụt mà mùa chẳng hư;
Vì lòng lo sợ có dư,
Phải toan chữ “đức” đặng trừ chữ “tai”.

Ngày nay châu Dự cõi ngoài,
Muôn dân đói khó, nào ai đỡ đần!
Tần Khanh trước bệ liền tâu:
Xin đi kinh lược Dự châu một lần.
Trước là chẩn thải muôn dân,
Sau răn quan lại, khỏi phần gian tham.
Tấn vương y tấu cho làm,
Phê rằng: “Thay trẫm, đông nam tuần hành”.

Tần Khanh phụng chỉ triều đình,
Thối triều sắm sửa, giàn binh mã rồi,

Về dinh tạm nghỉ một hồi,
Phu nhân liền đặt lễ bồi xin đưa.
Thưa rằng: Cám nỗi dây dưa,
Đoái câu “lân chỉ”, nhà chưa phỉ nguyền
Nay ông vâng lịnh tuần biên,
Ra ơn, làm phước, cầu duyên phận mình.
Hoặc là trời chút thương tình,
Sớm cho đặng chữ minh linh nối dòng.
Miễn là nối nghiệp cho ông,
Tôi, phần liễu yếu dám trông lẽ gì!

Tần Khanh từ giã ra đi,
Rần rần xe ngựa một khi đăng trình.
Ngưỡng chiêm kỳ, cổ, nghiêm minh:
Trải qua các trấn, sanh linh đều mừng.
Đua nhau rượu thịt đem dâng,
Đốt hương, đội trạng, tưng bừng xã thôn.

Mười ngày tới huyện long môn,
Xảy vừa gặp lúc hoàng hôn bóng vầy.
Huyện đường xin rước vào đây,
Truyền quân tạm nghỉ rạng ngày sẽ đi.

Đêm đông tiếng trống trì tri
Bóng trăng thấp thoáng trúc ly lối vào
Tần Khanh nằm thấy chiêm bao,
Hai con thỏ bạch nhảy vào trong tay,
Giựt mình bèn thức dậy ngay,
Ngồi bàn chưa rõ điềm nầy cát, hung.
Phút đâu trời đã hừng đông,
Đòi quan Tri huyện, hỏi trong dân tình,
Chỗ nào oan khúc cho minh,
Chỗ nào non nước anh linh cho tường,

Huyện quan bày vẽ mọi đường,
Rằng: Non Tùng có nhiều phương, thú cầm.
Nghĩ trong điều ấy nghi thầm,
Truyền ra một lịnh: sơn lâm liệp điền.
Huyện quan sắm việc săn liền,
Đem đi lên chốn sơn xuyên giải buồn.
Truyền quân vác lưới, chiêu muông,
Nhắm chừng Tùng lãnh, đi ruồng vào săn.
Non xanh cây mọc giăng giăng,
Hươu nai, dấu đá lấy ngăn chật đàng.

Trải qua vừa tới Thạch bàn,
Hai con thỏ bạch bên đàng nhảy đi,
Tần Khanh xem thấy lòng nghi,
Truyền quân bốn dấu, lưới vây tư bề.
Tìm theo tới chốn Hoàng khê,
Thấy hai gái trẻ nằm kề ngủ trưa.
Quân hầu chưa kịp lời thưa,
Tần Khanh bước tới thấy vừa lòng thương.
Nói rằng: Điềm mộng mơ màng,
Thật trời cho lão gặp đàng minh linh.

Giã ơn non nước thần linh,
Đi săn không thú, đã đành gặp con.
Bèn kêu thức dậy hỏi đon,
Việc chi dám tới núi non chốn này?
Tuyết, Băng thức dậy mới hay,
Cúi đầu bèn lạy, tỏ bày đầu đuôi.
Thưa rằng lỡ bước tới, lui,
Đói lòng nhờ có chim nuôi ba ngày,
Tần Khanh nghe rất mừng thay,
Con ai khéo đẻ, mặt mày tốt tươi.

Lịnh truyền bãi việc săn chơi,
Đem hai gái ấy về nơi huyện đường.

Tần Khanh ngồi giữa huyện đường,
Đòi ra han hỏi họ đương việc nhà.
Hỏi rằng hai trẻ tìm cha,
Rằng ai vẽ ngõ chỉ nhà cho đi?
Mới thưa rằng: Có danh y,
Bạn cùng thân phụ, Châu Kỳ là tên.
Tần Khanh đòi họ Châu liền,
Cùng là cô bác ở bên họ Hà.

Tần Khanh hỏi việc họ Hà,
Châu Kỳ gốc ngọn thưa qua rõ ràng.
Tần Khanh mới rõ lòng vàng,
Khen rằng: Bỏ đạo Hoà lan phải rồi.
Cho hay gà, hạc, khác ngôi,
Cây hiền, trái báu, biết mùi, mấy ai?
Bà con nội ngoại vừa hai,
Chớ rằng ai dại, trách tay các người!
Tuyết, Băng là gái thờ Trời,
Ta xin nuôi lấy, cải đời theo ta,

Châu Kỳ quỳ lạy trở ra,
Họ hàng nghe nói, trẻ già đều ưng.

Tuyết, Băng, thay áo, đổi quần.
Phận làm dưỡng tử, lễ dâng lạy rồi.
Tần Khanh sai kẻ tống hồi,
Phu nhân mừng đặng con nuôi trong nhà,
Ấp yêu như ngọc, như ngà,
Dạy bề đức hạnh, nết na thêm nhuần,
Xuê xang cốt cách mười phần,
Họ Hà cải lại họ Tần, rất vinh.

Trên đây là hồi 4 mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết trong tập truyện thơ Dương Từ – Hà Mậu. Đây được đánh giá là một trong những sáng tác tạo nên tên tuổi của nhà thơ này. Là một tập thơ dài và đa phần được viết theo thể thơ lục bát. Và qua đó Nguyễn Đình Chiểu muốn mượn câu chuyện để nói lên thái độ của ông đối với Đạo Phật và Công giáo Roma mà khi đó ông không tán thành.