Nguyễn Văn Vĩnh 阮文永 (1882-1936) được nhiều người biết đến là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch, nhà chính trị đầu thế kỷ 20. Ông đạt được thành công vang dội ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là những thi phẩm dịch nổi tiếng. Ông muốn mở mang kiến thức cho mọi người nên đã dịch những thi phẩm nước ngoài góp phần đa dạng nền thơ ca Việt Nam. Tiếp nối phần 3, chúng ta hãy cùng nhau đón xem phần 4 với những trang thơ đặc sắc ngay sau đây nhé!
Mèo già và chuột nhắt
Une jeune Souris de peu d’expérience
Crut fléchir un vieux Chat, implorant sa clémence,
Et payant de raisons le Raminagrobis:
Laissez-moi vivre: une Souris
De ma taille et de ma dépense
Est-elle à charge en ce logis?
Affamerais-je, à votre avis,
L’Hôte et l’Hôtesse, et tout leur monde?
D’un grain de blé je me nourris;
Une noix me rend toute ronde.
A présent je suis maigre; attendez quelque temps.
Réservez ce repas à messieurs vos Enfants.
Ainsi parlait au Chat la Souris attrapée.
L’autre lui dit: Tu t’es trompée.
Est-ce à moi que l’on tient de semblables discours?
Tu gagnerais autant de parler à des sourds.
Chat, et vieux, pardonner? cela n’arrive guères.
Selon ces lois, descends là-bas,
Meurs, et va-t’en, tout de ce pas,
Haranguer les soeurs Filandières.
Mes Enfants trouveront assez d’autres repas.
Il tint parole; Et pour ma Fable
Voici le sens moral qui peut y convenir:
La jeunesse se flatte, et croit tout obtenir;
La vieillesse est impitoyable.
Dịch
Thím Chuột nhắt trẻ người non dạ
Bị Mèo già vồ đã nguy nan
Lẻo mồm còn cứ kêu van:
Xin ngài sinh phúc kẻo oan phận này
Thân Chuột nhắt phỏng tầy mấy chút
Nhặt của rơi, thiệt hụt gì ai!
Hãy khoan lượng nghĩ xin ngài
Vì tôi đã để cho ai đói nào!
Miệng này phỏng ăn bao nhiêu hạt
Chỉ cơm rang góc bát là no
Sá chi thận phận gầy gò
Để dành các cậu, các cô thì vừa
Chuột bị bắt trình thưa như vậy
Mèo bảo rằng: – Lời ấy khó nghe
Thôi đi, đừng nói nữa đi!
Tao đây chứ phải giống gì mà mong
Mèo lại già hẳn không dung xá
Rất đang tâm, mi lạ chi ta
Thôi cho mi xuống làm ma
Kêu cùng thập điện hoạ là có nghe
Con tao chẳng thiếu chi thực phẩm
Mèo nói xong bèn lẩm Chuột ranh
Chuyện này nghĩa lý rành rành
Đầu xanh vẫn thị tinh ranh khoe mầu
Già hay tàn nhẫn biết đâu!
Nhái muốn to bằng bò
Une Grenouille vit un Boeuf
Qui lui sembla de belle taille.
Elle, qui n’était pas grosse en tout comme un oeuf,
Envieuse, s’étend, et s’enfle et se travaille,
Pour égaler l’animal en grosseur,
Disant: “Regardez bien, ma soeur;
Est-ce assez? dites-moi: n’y suis-je point encore?
Nenni – M’y voici donc? – Point du tout. M’y voilà?
Vous n’en approchez point. “La chétive pécore
S’enfla si bien qu’elle creva.
Le monde est plein de gens qui ne sont pas plus sages.
Tout bourgeois veut bâtir comme les grands seigneurs,
Tout prince a des ambassadeurs,
Tout marquis veut avoir des pages.
Dịch
Con nhái nom thấy con bò
Hình dung đẹp đẽ mình to béo tròn
Nhái bằng quả trứng tí hon
Lại toan cố sức bằng con bò vàng
Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương
Kêu: Chị em đến xem tường cho ta
Đã bằng chưa, chị trông, nà!
Bạn rằng còn kém – Nhái đà phồng thêm
Hỏi rằng: Được chửa, chị em?
Đáp rằng: Chưa được, phồng thêm ít nhiều!
Chị ơi còn kém bao nhiêu?
Bạn rằng: – Còn phải phồng nhiều, kém xa!
Tức mình chị nhái oắt ta
Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền
Ở đời lắm kẻ thật điên
Sức hèn lại muốn tranh tiên với người
Dại thay những lối đua đòi
Vinh gì cuộc rượu trận cười mà ganh
Để cho cơ nghiệp tan tành
Sáo mượn lông công
Un paon muait: un geai prit son plumage;
Puis après se l’accommoda;
Puis parmi d’autres paons tout fier se panada,
Croyant être un beau personnage.
Quelqu’un le reconnut: il se vit bafoué,
Berné, sifflé, moqué, joué,
Et par messieurs les paons plumé d’étrange sorte;
Même vers ses pareils s’étant réfugié,
Il fut par eux mis à la porte.
Il est assez de geais à deux pieds comme lui,
Qui se parent souvent des dépouilles d’autrui,
Et que l’on nomme plagiaires.
Je m’en tais, et ne veux leur causer nul ennui:
Ce ne sont pas là mes affaires.
Dịch
Công đổi lông, Sáo liền nhặt lấy
Đem lên mà cắm bậy vào mình
Cùng Công đi diện vung vinh
Coi trong bộ tịch có tình khoe khoang
Đàn Công thật, biết chàng giả mạo
Xúm nhau vào báng nhạo một phen
Đánh cho một trận huyên thiên
Mổ cho trụi đến lông đen của mình
Sáo bấy giờ nghĩ tình đồng loại
Về bọn nhà, chúng lại đuổi đi
Ngẫm xem trong bọn văn thi
Biết bao tài mượn, thiếu chi tá gà
Dầu thế vậy, đây ta mặc sức
Nói làm chi cho cực lòng người
Sói và cò
Les Loups mangent gloutonnement.
Un Loup donc étant de frairie
Se pressa, dit-on, tellement
Qu’il en pensa perdre la vie:
Un os lui demeura bien avant au gosier.
De bonheur pour ce Loup, qui ne pouvait crier,
Près de là passe une Cigogne.
Il lui fait signe; elle accourt.
Voilà l’Opératrice aussitôt en besogne.
Elle retira l’os; puis, pour un si bon tour,
Elle demanda son salaire.
“Votre salaire? dit le Loup:
Vous riez, ma bonne commère!
Quoi? ce n’est pas encor beaucoup
D’avoir de mon gosier retiré votre cou?
Allez, vous êtes une ingrate:
Ne tombez jamais sous ma patte.”
Dịch
Chó rừng tham ăn hay nuốt vội
Nhân một khi vui hội anh em
Miếng ngon đương lúc miệng thèm
Chưa trôi miếng gối đã thêm miếng đầu
Phải cái xương mắc sâu trong họng
Phúc mười đời Cò bỗng đi qua
Chó rừng mới gật chị ta
Đến ngay thò mỏ gắp ra một hòn
Xong công việc, Cò còn tính giá
Chó rừng đà chẳng trả tiền công
Lại còn ơn vỗ như không:
Đầu mày trong cổ họng ông mới rồi
Đã thoát khỏi thì thôi, phúc đức!
Lại chửa mừng còn chực đòi công
Bội ơn! Cút thẳng cho xong
Chớ hề đến trước mặt ông mà ngầy!
Ve và kiến
La cigale, ayant chanté
Tout l’été,
Se trouva fort dépourvue
Quand la bise fut venue:
Pas un seul petit morceau
De mouche ou de vermisseau.
Elle alla crier famine
Chez la fourmi sa voisine,
La priant de lui prêter
Quelque grain pour subsister
Jusqu’à la saison nouvelle.
“Je vous paierai, lui dit-elle,
Avant l’août, foi d’animal,
Intérêt et principal.”
La Fourmi n’est pas prêteuse:
C’est là son moindre défaut.
“Que faisiez-vous au temps chaud?
Dit-elle à cette emprunteuse.
Nuit et jour à tout venant
Je chantais, ne vous déplaise.
Vous chantiez? j’en suis fort aise:
Eh bien! dansez maintenant.”
Dịch
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời!
Xin đủ cả vốn lời
Tính Kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy
Ve rằng: Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác!
Kiến rằng: Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây
Truyện cô hàng sữa
Perrette, sur sa tête ayant un Pot au lait
Bien posé sur un coussinet,
Prétendait arriver sans encombre à la ville.
Légère et court vêtue elle allait à grands pas;
Ayant mis ce jour-là pour être plus agile
Cotillon simple, et souliers plats.
Notre Laitière ainsi troussée
Comptait déjà dans sa pensée
Tout le prix de son lait, en employait l’argent,
Achetait un cent d’œufs, faisait triple couvée;
La chose allait à bien par son soin diligent.
Il m’est, disait-elle, facile
D’élever des poulets autour de ma maison:
Le Renard sera bien habile,
S’il ne m’en laisse assez pour avoir un cochon.
Le porc à s’engraisser coûtera peu de son;
Il était quand je l’eus de grosseur raisonnable;
J’aurai le revendant de l’argent bel et bon;
Et qui m’empêchera de mettre en notre étable,
Vu le prix dont il est, une vache et son veau,
Que je verrai sauter au milieu du troupeau?
Perrette là-dessus saute aussi, transportée.
Le lait tombe; adieu veau, vache, cochon, couvée;
La Dame de ces biens, quittant d’un oeil marri
Sa fortune ainsi répandue,
Va s’excuser à son mari
En grand danger d’être battue.
Le récit en farce en fut fait;
On l’appela le Pot au lait.
Quel esprit ne bat la campagne?
Qui ne fait châteaux en Espagne?
Picrochole, Pyrrhus, la Laitière, enfin tous,
Autant les sages que les fous?
Chacun songe en veillant, il n’est rien de plus doux:
Une flatteuse erreur emporte alors nos âmes:
Tout le bien du monde est à nous,
Tous les honneurs, toutes les femmes.
Quand je suis seul, je fais au plus brave un défi;
Je m’écarte, je vais détrôner le Sophi;
On m’élit Roi, mon peuple m’aime;
Les diadèmes vont sur ma tête pleuvant:
Quelque accident fait-il que je rentre en moi-même;
Je suis gros Jean comme devant.
Dịch
Cô Bê-rét đi mang liễn sữa
Kê đệm bông để giữa đỉnh đầu
Chắc rằng kẻ chợ xa đâu
Nhẹ nhàng thoăn thoắt chẳng âu ngại gì
Chân hôm ấy thì đi dép một
Váy xắn cao ton tót bước nhanh
Gọn gàng mà lại thêm xinh
Vừa đi vừa tính phân minh từng đồng
Sữa bấy nhiêu, bán xong ngần ấy
Trứng một trăm mua lấy về nhà
Ấp đều có khó chi mà
Khéo ra mấy chốc đàn gà đầy sân
Cáo nọ dẫu mưu thần chước giỏi
Có tha đi cũng lỏi mươi con
Bán đi mua một lợn non
Ta cho ăn cám béo tròn như trâu
Đem ra chợ bầy đâu chẳng đắt
Bán lợn đi, lại dắt bò về
Thừa tiền thêm một con bê
Để cho nó nhẩy bốn bề mà coi
Cô Bê-rét nói rồi cũng nhẩy
Sữa đổ nhào hết thẩy còn chi
Nào bò, nào lợn, nào bê
Nào gà, nào trứng cùng đi đằng trời
Cô tôi thấy của rơi lênh láng
Lủi thủi về chịu mắng cùng chồng
Đành rằng mấy gậy là cùng
Để câu chuyện sữa kể dong khắp làng
Nghĩ lắm kẻ hoang đường cũng lạ
Ước xa xôi hay quá phận mình
Tề-Mân, Sở-Mục hùng danh
Ví cùng Bê-rét rành rành cũng như
Rõ mở mắt trơ trơ mà mộng
Chuyện mơ hồ mà động đến lòng
Của đời hết thảy thu xong
Trường thành đắp nổi, A-phòng về ta
Khi ta một mình ta thách hổ
Vua nước Tàu đạp đổ như chơi
Vận may lại thuận lòng người
Muôn dân mến phục, ngai Trời ngồi trên
Sịch một tiếng tỉnh liền giấc mộng
Té vẫn mình bố Ngỗng xưa nay
Thỏ và rùa
Rien ne sert de courir; il faut partir à point :
Le lièvre et la tortue en sont un témoignage.
“Gageons, dit celle-ci, que vous n’atteindrez point
Sitôt que moi ce but. – Sitôt ? Êtes-vous sage ?
Repartit l’animal léger :
Ma commère, il vous faut purger
Avec quatre grains d’ellébore.
Sage ou non, je parie encore.”
Ainsi fut fait; et de tous deux
On mit près du but les enjeux :
Savoir quoi, ce n’est pas l’affaire,
Ni de quel juge l’on convint.
Notre lièvre n’avait que quatre pas à faire.
J’entends de ceux qu’il fait lorsque, prêt d’être atteint,
Il s’éloigne des chiens, les renvoie aux calendes,
Et leur fait arpenter les landes.
Ayant, dis-je, du temps de reste pour brouter,
Pour dormir, et pour écouter
D’où vient le vent, il laisse la tortue
Aller son train de sénateur.
Elle part, elle s’évertue,
Elle se hâte avec lenteur.
Lui cependant méprise une telle victoire,
Tient la gageure à peu de gloire,
Croit qu’il y va de son honneur
De partir tard. Il broute, il se repose,
Il s’amuse à toute autre chose
Qu’à la gageure. A la fin, quand il vit
Que l’autre touchait presque au bout de la carrière,
Il partit comme un trait; mais les élans qu’il fit
Furent vains : la tortue arriva la première.
“Eh bien! lui cria-t-elle, avais-je pas raison ?
De quoi vous sert votre vitesse ?
Moi l’emporter! et que serait-ce
Si vous portiez une maison ?
Dịch
Đi cho sớm, việc gì tất tả
Chuyện Thỏ Rùa nghĩ đã hay thay!
Rùa kia gọi Thỏ bảo: – Này
Thi cùng ta chạy từ đây qua đường
Thỏ bảo Rùa: – Chị thường hóa dại
Hãy uống xong thuốc tẩy vài liều
Họa chăng ta có nhận keo
Rùa càng thách tợn, giải treo thật nhiều
Thỏ tức khí bao nhiêu cũng đắt
Đem giải kia mà đặt bên đường
Những gì lọ kể dài dang
Ai ngồi chủ cuộc, phân tường nói chi
Thỏ ra sức chỉ đi ba bước
Là đến nơi lấy được như không
Vội chi mà chẳng thong dong
Vừa đi vừa bỡn cũng không chậm gì
Đứng gặm cỏ, có khi cũng sớm
Mặc kệ Rùa, Thỏ hợm ta đây
Chàng dàng chân dép chân giầy
Trong khi Rùa nọ ai hay vội vàng
Biết thân nặng lại càng cố gắng
Cứ từ từ rảo cẳng bước lên
Sá chi thân phận Rùa hèn
Thỏ càng đủng đỉnh ở bên vệ đường
Nhường chạy trước thêm càng danh giá
Muốn lúc nào mà chả đến nơi
Vừa đi, vừa nghỉ, vừa chơi
Nghe hơi gió thổi, xem trời kéo mây
Rùa thấm thoát đến ngay trước đích
Thỏ vội vàng một mạch chồn chân
Nhưng mà chửa được đến gần
Thì Rùa đã tới nơi ăn giải rồi
Lại còn nhiếc một hồi: – chú Thỏ
Đã bảo mà, nhanh có làm chi!
Ví chăng nhà cũng đội đi
Như ta đây nữa, chú thì bước sao?
Thần chết và tiều phu
Un pauvre bûcheron, tout couvert de ramée,
Sous le faix du fagot aussi bien que des ans
Gémissant et courbé, marchait à pas pesants,
Et tâchait de gagner sa chaumine enfumée.
Enfin, n’en pouvant plus d’effort et de douleur,
Il met bas son fagot, il songe à son malheur.
Quel plaisir a-t-il eu depuis qu’il est au monde ?
En est-il un plus pauvre en la machine ronde ?
Point de pain quelquefois et jamais de repos.
Sa femme, ses enfants, les soldats, les impôts,
Le créancier et la corvée
Lui font d’un malheureux la peinture achevée.
Il appelle la Mort ; elle vient sans tarder,
Lui demande ce qu’il faut faire.
«C’est, dit-il, afin de m’aider
A recharger ce bois ; tu ne tarderas guère.»
Dịch
Lão tiều vác củi cành một bó
Củi đã nhiều, niên số lại cao
Lặc lè chân đá chân xiêu
Lom khom về chốn thảo mao khói mù
Tủi thân phận kỳ khu khó nhọc
Đặt bó sài ở dọc lối đi
Than rằng: – Sung sướng nỗi gì
Khắp trong thế giới ai thì khổ hơn?
Bữa no đói luôn cơn buồn bã
Vợ nào con vất vả trăm chiều
Hết thuế lính lại thuế sưu
Quanh năm khách nợ còn điều gì vinh?
Hỡi thần Chết thương tình chăng tá
Đến lôi đi cho dã một đời
Chết đâu dẫn lại tức thời
Hỏi già khi nãy kêu vời lão chi?
Lão tiều thấy cơ nguy cuống sợ:
Nhờ tay ngài nhắc đỡ lên vai
Thơ rẳng:
Đành chết là hết nợ
Sao mà ai cũng sợ?
Mới hay bụng thế gian
“Khổ mà sống còn hơn!”
Sư tử và muỗi mắt
Va-t’en, chétif Insecte, excrément de la terre
C’est en ces mots que le Lion
Parlait un jour au Moucheron.
L’autre lui déclara la guerre.
Penses-tu, lui dit-il, que ton titre de Roi
Me fasse peur ni me soucie?
Un Bœuf est plus puissant que toi,
Je le mène à ma fantaisie.
À peine il achevait ces mots
Que lui-même il sonna la charge,
Fut le Trompette et le Héros.
Dans l’abord il se met au large,
Puis prend son temps, fond sur le cou
Du Lion, qu’il rend presque fou.
Le Quadrupède écume, et son œil étincelle;
Il rugit, on se cache, on tremble à l’environ;
Et cette alarme universelle
Est l’ouvrage d’un Moucheron.
Un avorton de Mouche en cent lieux le harcelle,
Tantôt pique l’échine, et tantôt le museau,
Tantôt entre au fond du naseau.
La rage alors se trouve à son faîte montée.
L’invisible ennemi triomphe, et rit de voir
Qu’il n’est griffe ni dent en la bête irritée
Qui de la mettre en sang ne fasse son devoir.
Le malheureux Lion se déchire lui-même,
Fait résonner sa queue à l’entour de ses flancs,
Bat l’air qui n’en peut mais, et sa fureur extrême
Le fatigue, l’abat; le voilà sur les dents.
L’Insecte du combat se retire avec gloire:
Comme il sonna la charge, il sonne la victoire,
Va partout l’annoncer, et rencontre en chemin
L’embuscade d’une Araignée:
Il y rencontre aussi sa fin.
Quelle chose par là nous peut être enseignée?
J’en vois deux, dont l’une est qu’entre nos ennemis
Les plus à craindre sont souvent les plus petits;
L’autre, qu’aux grands périls tel a pu se soustraire,
Qui périt pour la moindre affaire.
Dịch
Sư-tử một hôm mắng con Muỗi:
Bước đi đồ hôi thối nhỏ nhen!
Muỗi ta đâu có chịu hèn
Tức cùng Sư tử trao liền chiến thư
Mi chớ tưởng vua mà ta sợ
Đừng làm cao, mi chớ hợm đời
Con bò to gấp mấy ngươi
Ta còn kéo nổi như chơi đi cùng
Nói vừa đoạn Muỗi xông lên trước
Rúc tù và, rồi vượt trận tiền
Vừa làm tướng, vừa thổi kèn
Trước còn bay vọt lên trên tít mù
Sau nhào xuống, nhảy xô vào cổ
Sư tử ta xấu hổ phát điên
Mép sùi bọt, mắt quắc lên
Miệng gầm, chân nhảy, sợ rên một vùng
Việc kinh hãi khắp trong thế giới
Ai hay đâu bởi cái Muỗi con
Đuổi Sư khắp núi cùng non
Khi thì đốt gáy, lúc bon cắn đầu
Khi bay lọt vào đâu lỗ mũi
Sư tử ta hậm hụi phát khùng
Ngụy ranh quay cổ lại trông
Thấy nanh cùng vuốt cũng không làm gì
Muỗi nhoét miệng cười khì mấy tiếng
Sư tức mình lại nghiến hàm răng
Đuôi thì ngoe nguẩy vung văng
Mà ra phải chịu một thằng Muỗi ranh
Anh giận lắm thì anh thêm nhọc
Cậy hùng cường làm cóc gì tôi!
Muỗi ta thắng trận phản hồi
Khải hoàn một trận vang trời vo vo
Chạy cùng xứ báo cho chúng biết
Mạng nhện đâu lại kết ngang đường
Muỗi ta vướng phải ai thương
Ta nên lấy chuyện làm gương hai điều:
Cuộc tranh cạnh có nhiều thù nghịch
Kẻ nhỏ thường nên kệch kẻ to
Nhiều khi việc lớn chẳng lo
Mà ra chút việc nhỏ nhò chẳng xong
Sư tử bị người quật chết
On exposait une peinture,
Où l’Artisan avait tracé
Un Lion d’immense stature
Par un seul homme terrassé.
Les regardants en tiraient gloire.
Un Lion, en passant rabattit leur caquet.
Je vois bien, dit-il, qu’en effet
On vous donne ici la victoire:
Mais l’Ouvrier vous a déçus:
Il avait liberté de feindre.
Avec plus de raison nous aurions le dessus,
Si mes Confrères savaient peindre.
Dịch
Trên bức vách có tranh lạ kiểu
Khen thợ đâu cũng khéo vẽ vời
Một con Cọp lớn tuyệt vời
Mà ra chỉ có một người giết xong
Kẻ đứng ngắm thôi cùng tấm tắc
Cọp đâu qua, lập tức im mồm
Cọp rằng: “Cứ đó ta nom
Thì ra người khoẻ hơn hùm chẳng sai
Nhưng thợ vẽ điêu tai quá đỗi
Bút có quyền tả dối sự đời
Ví dầu Cọp biết vẽ vời
Tranh này hẳn khác, cảnh thời không ngoa”
Sói và đàn gà tây
Contre les assauts d’un Renard
Un arbre à des Dindons servait de citadelle.
Le perfide ayant fait tout le tour du rempart,
Et vu chacun en sentinelle,
S’écria: Quoi! Ces gens se moqueront de moi!
Eux seuls seront exempts de la commune loi!
Non, par tous les Dieux, non. Il accomplit son dire.
La lune, alors luisant, semblait, contre le sire,
Vouloir favoriser la dindonnière gent.
Lui, qui n’était novice au métier d’assiégeant,
Eut recours à son sac de ruses scélérates,
Feignit vouloir gravir, se guinda sur ses pattes,
Puis contrefit le mort, puis le ressuscité.
Harlequin n’eût exécuté
Tant de différents personnages.
Il élevait sa queue, il la faisait briller,
Et cent mille autres badinages.
Pendant quoi nul Dindon n’eût osé sommeiller:
L’ennemi les lassait en leur tenant la vue
Sur même objet toujours tendue.
Les pauvres gens étant à la longue éblouis
Toujours il en tombait quelqu’un: autant de pris,
Autant de mis à part; près de moitié succombe.
Le compagnon les porte en son garde-manger.
Le trop d’attention qu’on a pour le danger
Fait le plus souvent qu’on y tombe.
Dịch
Đàn gà tây sợ mưu chó sói
Lên cây cao chói lọi lảm thanh
Sói ta chạy loạn vòng quanh
Thấy gà chăm chắm đứng rình trên cây
Sói nổi giận: – Quân này láo thật!
Bay đứng xa không bắt được sao?
Nói rồi sói giở mưu cao
Nhân đêm hôm ấy trăng sao vặc trời
Hình như vị ở nơi gà qué
Thách sói tài giở kế vây quanh
Sói liền mở túi tinh ranh
Chồm lên rồi lại như đành chịu thôi
Đoạn rồi đến nằm co tảng chết
Ngón phường chèo giở hết trò ra
Chước đâu khôn khéo thực là!
Trăm phương nghìn kế thôi mà thiếu chi
Trong khi sói quanh đi quẩn lại
Thì đàn gà sợ hãi suốt đêm
Dẫu rằng buồn ngủ đã mềm
Chống đôi con mắt mà xem chước gì
Ra nhìn mãi rồi thì hóa quáng
Té lộn nhào đâm choạng xuống sân
Con này con khác ngã dần
Sói tha con một để gần một bên
Khi chồng chất đã nên một đống
Bấy giờ xâu đòn ống đem về
Ở đời nên nhãng cái nguy
Càng săn nom lắm, nhiều khi vào tròng
Sói và cò
Les Loups mangent gloutonnement.
Un Loup donc étant de frairie
Se pressa, dit-on, tellement
Qu’il en pensa perdre la vie:
Un os lui demeura bien avant au gosier.
De bonheur pour ce Loup, qui ne pouvait crier,
Près de là passe une Cigogne.
Il lui fait signe; elle accourt.
Voilà l’Opératrice aussitôt en besogne.
Elle retira l’os; puis, pour un si bon tour,
Elle demanda son salaire.
“Votre salaire? dit le Loup:
Vous riez, ma bonne commère!
Quoi? ce n’est pas encor beaucoup
D’avoir de mon gosier retiré votre cou?
Allez, vous êtes une ingrate:
Ne tombez jamais sous ma patte.”
Dịch
Chó rừng tham ăn hay nuốt vội
Nhân một khi vui hội anh em
Miếng ngon đương lúc miệng thèm
Chưa trôi miếng gối đã thêm miếng đầu
Phải cái xương mắc sâu trong họng
Phúc mười đời Cò bỗng đi qua
Chó rừng mới gật chị ta
Đến ngay thò mỏ gắp ra một hòn
Xong công việc, Cò còn tính giá
Chó rừng đà chẳng trả tiền công
Lại còn ơn vỗ như không:
Đầu mày trong cổ họng ông mới rồi
Đã thoát khỏi thì thôi, phúc đức!
Lại chửa mừng còn chực đòi công
Bội ơn! Cút thẳng cho xong
Chớ hề đến trước mặt ông mà ngầy!
Sáo mượn lông công
Un paon muait: un geai prit son plumage;
Puis après se l’accommoda;
Puis parmi d’autres paons tout fier se panada,
Croyant être un beau personnage.
Quelqu’un le reconnut: il se vit bafoué,
Berné, sifflé, moqué, joué,
Et par messieurs les paons plumé d’étrange sorte;
Même vers ses pareils s’étant réfugié,
Il fut par eux mis à la porte.
Il est assez de geais à deux pieds comme lui,
Qui se parent souvent des dépouilles d’autrui,
Et que l’on nomme plagiaires.
Je m’en tais, et ne veux leur causer nul ennui:
Ce ne sont pas là mes affaires.
Dịch
Công đổi lông, Sáo liền nhặt lấy
Đem lên mà cắm bậy vào mình
Cùng Công đi diện vung vinh
Coi trong bộ tịch có tình khoe khoang
Đàn Công thật, biết chàng giả mạo
Xúm nhau vào báng nhạo một phen
Đánh cho một trận huyên thiên
Mổ cho trụi đến lông đen của mình
Sáo bấy giờ nghĩ tình đồng loại
Về bọn nhà, chúng lại đuổi đi
Ngẫm xem trong bọn văn thi
Biết bao tài mượn, thiếu chi tá gà
Dầu thế vậy, đây ta mặc sức
Nói làm chi cho cực lòng người
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng cho các bạn trọn bộ những trang thơ dịch đặc sắc nhất của nhà thơ Nguyễn Văn Vĩnh. Hy vọng quý độc giả sẽ yêu thích bài viết này của chúng tôi.