Nguyễn Xuân Sanh (1920-) là nhà thơ, dịch giả, sinh ngày 16-11-1920 tại Đà Lạt. Cha ông là một nhà nho ở Quảng Bình, sau di cư vào Đà Lạt. Thơ Nguyễn Xuân Sanh luôn mang một màu sắc mới mẻ và đầy sâu sắc. Ông là một nhà thơ tiên phong cho phong trào thơ mới của nước ta. Ngòi bút sắc sảo cùng sự tâm huyết đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo và đầy thú vị. Để rồi những chùm thơ dịch cũng không hề kém cạnh, chúng đã thêm phần công nhận sự tài hoa và vốn hiểu biết của thi sĩ. Những tác phẩm được mọi người tung hô và đón nhận nồng nhiệt. Dưới đây, tapchivannghe.com sẽ chia sẻ đến các bạn những tuyệt phẩm của ông, hãy đón xem nhé!
3
A nap akkor már a földet érintette,
Mikor Jancsi a nyájt félig összeszedte;
Nem tudja, hol lehet annak másik fele:
Tolvaj-e vagy farkas, ami elment vele?
Akárhová lett az, csakhogy már odavan;
Búsulás, keresés, minden haszontalan.
Most hát mihez fogjon? nekiszánva magát,
Hazafelé hajtja a megmaradt falkát.
“Majd lesz neked Jancsi… no hiszen lesz neked!”
Szomorún kullogva gondolta ezeket,
“Gazduramnak ugyis rossz a csillagzatja,
Hát még… de legyen meg isten akaratja.”
Ezt gondolta, többet nem is gondolhatott;
Mert ekkor a nyájjal elérte a kaput.
Kapu előtt állt az indulatos gazda,
Szokás szerint a nyájt olvasni akarta.
“Sose olvassa biz azt kelmed, gazduram!
Mi tagadás benne? igen nagy híja van;
Szánom, bánom, de már nem tehetek róla,”
Kukoricza Jancsi e szavakat szólta.
Gazdája meg ezt a feleletet adta,
S megkapta bajszát, és egyet pödrött rajta:
“Ne bolondozz Jancsi, a tréfát nem értem;
Amíg jól van dolgod, föl ne gerjeszd mérgem.”
Kisült, hogy korántsem tréfaság a beszéd,
Jancsi gazdájának majd elvette eszét;
Jancsi gazdája bőg, mint aki megbőszült:
“Vasvillát, vasvillát!… hadd szúrjam keresztül!
Jaj, a zsivány! jaj, az akasztani való!
Hogy ássa ki mind a két szemét a holló!…
Ezért tartottalak? ezért etettelek?
Sohase kerüld ki a hóhérkötelet.
Elpusztulj előlem, többé ne lássalak!”
Jancsi gazdájából így dőltek a szavak;
Fölkapott hirtelen egy petrencés rudat,
A petrencés rúddal Jancsi után szaladt.
Kukoricza Jancsi elfutott előle,
De koránsem azért, mintha talán félne,
Markos gyerek volt ő, husz legényen kitett,
Noha nem érte meg még husszor a telet.
Csak azért futott, mert világosan látta,
Hogy méltán haragszik oly nagyon gazdája;
S ha ütlegre kerül a dolog, azt verje,
Ki félig apja volt, ki őt fölnevelte?
Futott, míg a szuszból gazdája kifogyott;
Azután ballagott, megállt, meg ballagott
Jobbra is, balra is; s mindevvel mit akar?
Nem tudta, mert nagy volt fejében a zavar.
Dịch
Giăng chỉ tìm được một nửa đàn cừu lạc
Mặt trời đã chếch sát xuống chân mây
Những con khác ở đâu? Nào ai hay
Một tên trộm đã bắt cừu, hay chó sói?
Thôi từ giã lũ cừu. Biết làm sao nói
Có tìm, có than vãn cũng toi công
Làm gì bây giờ? anh cứ thế cho xong
Anh dẫn lũ cừu còn lưa về nhà chủ
“Hắn sẽ nướng anh đi, hỡi Giăng hàng ngày gian khổ!
Anh buồn nghĩ vậy khi lê chân về
Chủ nhà cũng không còn tốt số nữa đâu
Đúng. Nhưng lần này! – Cứ đi về, kệ xác”
Anh tự bảo thế và trên đường mải miết
Đàn cừu anh vừa đến cổng sân
Trên ngưỡng cửa chủ nhà nổi cơn
Đang đứng đếm, như mỗi chiều, đàn cừu của hắn
“Thưa ông chủ, ông đừng mất thì giờ đứng đếm
Giấu làm chi? Đàn cừu thiếu, thiếu nhiều!
Tôi chạy tìm khắp nơi, nhưng có thấy đủ đâu”
Lời bộc lộ của cậu Giăng ta đó
Nắm chòm râu cá trê mà vặn xoáy
Ông chủ cậu Giăng lên tiếng trả lời
“Tao không thèm nghe chuyện khôi hài
Mày làm cho ông mày đây sôi máu!”
Lời anh chăn cừu là những lời nhảm nhí
Ông chủ cậu Giăng đã mất trí khôn rồi
Ông chủ gào như con hổ dại mà thôi
“Xóc đâu! xóc đâu! tao sẽ xóc!
Này tên kẻ cướp! Ông phải treo cổ mày cho biết mặt!
Quạ dữ sẽ móc mắt mày đi!
Nuôi mày ăn, cho mày cháo, mày không biết ơn ai?
Mày không thể nào thoát dây treo cổ!
Xéo! Biến đi! Tao không muốn nhìn mày nữa!”
Lời nói ra như một ngọn thác xô
Tay hắn bỗng tóm một cây sào
Hắn chạy đuổi theo Giăng như cuốn vó
Giăng đẻ-rơi chạy nhanh trước chủ
Nhưng cậu chạy trốn không phải vì sợ vì lo
Với hai mươi thanh niên cậu đủ sức đương đầu
Tuy Giăng mới chưa đầy hai mươi tuổi
Anh chạy vì anh thấy thật là rất phải
Khi chủ nhà bẳng hẳng nổi cơn xung
Và nếu đánh, cậu có nên đánh hay không?
Ông là người đã nuôi cậu, cậu coi ông như bố
Cậu chạy hăng đến nỗi ông chủ nhà mệt lả
Lão đi rồi ngừng, rồi lững thững lại đi
Dọc phía này, ngang phía nọ: đâu bây giờ?
Làm gì đây?
Đầu lão ta bối rối
4
Mikorra a patak vize tükörré lett,
Melybe ezer csillag ragyogása nézett:
Jancsi Iluskáék kertje alatt vala;
Maga sem tudta, hogy mikép jutott oda.
Megállt, elővette kedves furulyáját,
Kezdte rajta fújni legbúsabb nótáját;
A harmat, mely ekkor ellepett fűt, bokort,
Tán a szánakozó csillagok könnye volt.
Iluska már aludt. A pitvar eleje
Volt nyár idejében rendes fekvőhelye.
Fekvőhelyéről a jól ismert nótára
Fölkelt, lesietett Jancsi látására.
Jancsinak látása nem esett kedvére,
Mert megijedt tőle, s ily szót csalt nyelvére:
“Jancsi lelkem, mi lelt? mért vagy oly halovány,
Mint az elfogyó hold bús őszi éjszakán?”
“Hej, Iluskám! hogyne volnék én halovány,
Mikor szép orcádat utószor látom tán…”
“Jancsikám, látásod ugyis megrémített:
Hagyd el az istenért az ilyen beszédet!”
“Utószor látlak én, szivem szép tavasza!
Utószor szólt itten furulyám panasza;
Utószor ölellek, utószor csókollak,
Örökre elmegyek, örökre itt hagylak!”
Most a boldogtalan mindent elbeszéle,
Ráborúlt zokogó kedvese keblére,
Ráborúlt, ölelte, de képpel elfordult:
Ne lássa a leány, hogy könnye kicsordult.
“Most hát, szép Iluskám! Most hát, édes rózsám!
Az isten áldjon meg, gondolj néha reám.
Ha látsz száraz kórót szélvésztől kergetve,
Bujdosó szeretőd jusson majd eszedbe.”
“Most hát, Jancsi lelkem, eredj, ha menned kell!
A jóisten legyen minden lépéseddel.
Ha látsz tört virágot útközepre vetve,
Hervadó szeretőd jusson majd eszedbe.”
Elváltak egymástól, mint ágtól a levél;
Mindkettejök szive lett puszta, hideg tél.
Könnyeit Iluska hullatta nagy számmal,
Jancsi letörölte inge bő ujjával.
Indult; nem nézte egy szemmel sem, hol az ut?
Neki úgyis mindegy volt, akárhova jut.
Fütyörésztek pásztorgyermekek mellette,
Kolompolt a gulya… ő észre sem vette.
A falu messzire volt már háta megett,
Nem látta lobogni a pásztortüzeket;
Mikor utójára megállt s visszanézett,
A torony bámult rá, mint sötét kisértet.
Ha ekkor mellette lett volna valaki,
Hallotta volna őt nagyot sóhajtani;
A levegőeget daruk hasították,
Magasan röpűltek, azok sem hallották.
Ballagott, ballagott a halk éjszakában,
Csak nehéz subája suhogott nyakában;
Ő ugyan subáját gondolta nehéznek,
Pedig a szive volt oly nehéz szegénynek.
Dịch
Đã đến lúc nghìn ngôi sao chấp chới
Trong gương suối nước dập dờn trong
Giăng đã đến nhà I-lu, cậu đứng đầu vườn
Cũng không biết chân đưa đến đâu đây nữa
Cậu đứng lại, nâng lên môi chiếc sáo
Thổi điệu sáo buồn nhất xưa nay
Sương chảy dài trên cỏ trên cây
Phải chăng thương anh mà các ngôi sao khóc?
I-lu ngủ rồi. Như thường ngày không khác
Cô ngủ trước cửa ngăn mỗi lúc đến hè
Điệu sáo này cô đã quen nghe
Thức dậy vội vàng cô chạy về phía bạn
Nhưng gặp nhau đâu có vui lòng lắm
Cô lo lắng, cô hỏi bạn câu này:
“Anh yêu ơi, anh sao thế? Anh xanh xao!
Mặt anh như vành trăng đêm thu buồn bã”
“Xanh xao phải không em? Làm sao không ảo não
Khi lần cuối cùng anh được nhìn thấy mặt em”
“- Nét mặt anh càng làm em sợ hãi thêm
Giăng, em không muốn em nói như thế nữa!”
“- Mùa xuân thắm lòng anh, thôi từ giã
Em không còn nghe tiếng sáo anh than
Em không còn thấy anh ve vuốt yêu thân
Anh đi mãi, anh xa em mãi mãi!”
Cậu kể nàng nghe bao điều tê tái
Cậu nghiêng mình trên ngực thổn thức I-lu
Cậu sát mình đắm đuối, nhưng che mắt đẫm mờ
Không nên để cô thấy đôi dòng lệ chảy
“Em I-lu xinh tươi, đóa hoa hồng êm dịu
Vĩnh biệt nhé! Lâu lâu hãy nhớ anh
Khi em thấy cây gai bị bão cuốn lăn
Em hãy nhớ tưởng người yêu còn lang thang đây đó”
“- Giăng yêu quý của lòng em, nếu là phải thế
Thì anh cứ đi, Chúa Trời theo dõi bước anh đi!
Nếu trên đường anh thấy một cánh hoa rơi
Hãy nhớ tưởng người anh yêu đang héo tàn ở quê cũ”
Cậu rời tay cô em như lá rũ
Mưa đông lạnh lẽo xâm chiếm hai trái tim non
Giăng lấy cánh tay áo lót trong
Thấm đôi má của I-lu đẫm lệ
Cậu ra đi, mắt không nhìn đường cái
Sẽ đi đâu? Bất cứ. Cậu không cần
Các cậu chăn súc nhỏ, lắc chuông lên!
Giăng qua gần các anh, vẫn không nghe tiếng sáo
Làng đã xa rồi sau lưng cậu
Không còn thấy lửa các cậu chăn bò
Dừng chân lần cuối, mắt liếc ra sau
Bóng đen gác chuông nhìn Giăng sửng sốt
Ai đứng gần trong giây phút
Sẽ nghe Giăng cất tiếng thở dài
Trên trời cao đàn sếu đang bay
Sếu quá xa không nghe được Giăng dài tiếng thở
Cậu bước đi, bước đi, trong đêm vắng vẻ
Chỉ nghe tiếng sột soạt áo khoác ngoài
Cậu nghĩ: “Nàng trĩu nặng lòng tôi”
Thương thay! Chính lòng Giăng trĩu nặng
5
Mikor a nap fölkelt, s a holdat elküldte,
A puszta, mint tenger, feküdt körülötte;
A nap fölkeltétől a nap enyésztéig
Egyenes rónaság nyujtózkodott végig.
Nem volt virág, nem volt fa, nem volt bokor ott,
A harmat apró gyér füveken csillogott;
Oldalvást a napnak első sugarára
Fölpiroslott egy tó; környékezte káka.
A tónak szélénél a káka közepett
Egy hosszú nyakú gém eledelt keresett,
És a tó közepén gyors halászmadarak
Hosszú szárnyaikkal le s föl szállongtanak.
Jancsi csak ballagott sötét árnyékával
S elméjének sötét gondolkozásával;
Az egész pusztában széjjel sütött a nap,
De az ő szivében éjek éje maradt.
Mikor a nap elért az ég tetejére,
Eszébe jutott, hogy falatozni kéne,
Tennap ilyen tájban evett utójára,
Meg alig is bírta már lankadó lába.
Letelepűlt, elővette tarisznyáját,
Megette maradék kevés szalonnáját.
Nézte őt a kék ég, a fényes nap… alább
Ragyogó szemével a tündér délibáb.
A kis ebéd neki jóízűen esett,
Megszomjazott rá, a tóhoz közeledett,
Kalapjának belemártá karimáját,
Ekkép enyhítette égő szomjuságát.
A tónak partjáról nem távozott messze:
Az álom szemének pilláját ellepte;
Vakondokturásra bocsátotta fejét,
Hogy visszanyerhesse elfogyott erejét.
Az álom őt odavitte, ahonnan jött,
Iluskája pihent hű karjai között,
Mikor a kisleányt csókolni akarta,
Hatalmas mennydörgés álmát elzavarta.
Szétnézett a puszta hosszában, széltében;
Nagy égiháború volt keletkezőben.
Oly hamar támadott az égiháború,
Mily hamar Jancsinak sorsa lett szomorú.
A világ sötétbe öltözködött vala,
Szörnyen zengett az ég, hullt az istennyila;
Végtére megnyílt a felhők csatornája,
S a tó vize sűrű buborékot hánya.
Jó hosszú botjára Jancsi támaszkodott,
Lekonyította a karimás kalapot,
Nagyszőrű subáját meg kifordította,
Úgy tekintett bele a vad zivatarba.
De a vihar ami hamar keletkezett,
Oly hamar is hagyta el megint az eget.
Megindult a felhő könnyü szélnek szárnyán,
Ragyogott keleten a tarka szivárvány.
Subájáról Jancsi lerázta a vizet,
Miután lerázta, ujra utnak eredt.
Mikor a nap leszállt pihenni ágyába,
Kukoricza Jancsit még vitte két lába.
Vitte őt két lába erdő közepébe,
Sűrű zöld erdőnek sötét közepébe;
Ott őt köszöntötte holló károgása,
Mely épen egy esett vadnak szemét ásta.
Sem erdő, sem holló őt nem háborgatván,
Kukoricza Jancsi ment a maga utján;
Erdő közepében sötét ösvényére
Leküldte világát a hold sárga fénye.
Dịch
Khi trăng tàn, mặt trời hửng
Cánh đồng quanh cậu là một mặt biển yên lành
Không biết ngày mọc nơi đâu và nơi đâu ngày tan
Mênh mông biết bao cánh đồng vô định
Không hoa, không cây, không bụi rậm
Sương mai chấp chới trên lá cỏ lơ thơ
Chói ánh sáng đầu ngày, bên đường đi
Ửng hồng mặt ao xung quanh đầy lau lách
Bên bờ ao, trong hàng lau, đứng nấp
Con hạc cổ dài đứng kiếm mồi ăn
Ngoài ao, chim bói cá sải cánh lướt ngang
Đua nhau lượn giữa trời xanh và mặt nước
Trên đường cậu Giăng vẫn còn tiến bước
Bóng in trên đất và đêm ngập trong lòng
Mặt trời khắp nơi chiếu rạng cánh đồng
Nhưng lòng cậu vẫn vô cùng tăm tối
Trên trời xanh mặt trời lên cao mãi
Giăng tự nhủ mình: “Phải nhắm chút bánh mì thôi”
Vì hôm qua cậu nhịn đói vào giờ này
Đầu gối mỏi không giữ người cậu nổi
Dừng chân cậu ngồi, cậu mở bị
Bỏ vào mồm miếng mỡ cũ thừa
Trời xanh, nắng hồng chói nhìn người
Và một ảo cảnh ngời xa ve vuốt
Bữa ăn ngon mồm tuy ăn ít
Cơn khát đến. Cậu lê đến sát ao
Múc nước bằng cái mũ dạ đội đầu
Và cơn khát được nguôi dần lửa đốt
Bờ ao cậu không thể nào từ biệt
Cậu cảm thấy giấc ngủ đè xuống trên mi
Trên hang chuột chũi, đầu cậu nằm ngơi
Để vớt lại một chút nào sức kiệt
Một giấc mơ kéo cậu về nơi cậu vừa rời bước
I-lu nằm ngủ trên tay cậu trung thành
Khi cậu muốn ôm cô bé vào mình
Cơn sét kinh người lay tỉnh dậy
Cậu dạo mắt trên cánh đồng quanh đấy
Cậu thấy trên trời một trận chiến đấu lớn sẵn sàng
Vận rủi sẵn sàng đập xuống đầu Giăng
Bão táp cũng sẵn sàng thổi tới
Trời buổi sáng có vải tang dài phủ dậy
Trong không gian tiếng sét đánh ầm ầm
Những cuộn mây dày xối nước miên man
Ao vỗ bờ, bọt nước dềnh tới tấp
Giăng chống lên cây gậy dài cứng cáp
Cậu kéo xuống mắt chiếc mũ rộng vành
Áo tơi lông dài cậu khoác trái trên lưng
Cậu bước xông vào cơn bão dữ
Nhưng nếu cả bầu trời bão giông mau chiếm cứ
Bão giông tan cũng không kém nhanh hơn
Gió bể thổi mây đi lớp lớp từng đàn
Chói phương đông cầu vồng vui lộng lẫy
Giăng rũ áo tơi đầy nước dấy
Áo nhẹ hơn nhiều. Cậu lại lên đường
Mặt trời mỏi mệt cũng đã muốn nghỉ chân
Mặt trời lặn vẫn thấy Giăng còn lê bước
Giăng đi đến giữa rừng cây rậm rạp
Rừng cây to ngang dọc bao cành
Con quạ đen lên tiếng dữ chào anh
Nó vừa moi mắt một xác chết thối
Rừng cây cũng như quạ đen không làm Giăng kinh hãi
Giăng đi và thẳng trước mặt Giăng đi
Trên đường hẻm băng rừng cây
Ánh trăng nhạt màu vàng le lói
6
Az idő járása éjfél lehetett már,
Mikor szemébe tünt egy pislogó sugár.
Amint közelebb ért, látta, hogy ez a fény
Ablakból világít az erdő legmélyén.
Jancsi e látványra ekkép okoskodék:
“Ez a világ aligha csárdában nem ég;
Bizonyára ugy lesz – hál’ a jóistennek!
Bemegyek az éjre, benne megpihenek.”
Csalatkozott Jancsi, mert az nem volt csárda,
Hanem volt tizenkét zsiványnak tanyája.
Nem állott üresen a ház, a zsiványok
Mind a tizenketten odabenn valának.
Éjszaka, zsiványok, csákányok, pisztolyok…
Ha jól megfontoljuk, ez nem tréfadolog;
De az én Jancsimnak helyén állt a szíve,
Azért is közéjük nagy bátran belépe.
“Adjon az úristen szerencsés jó estét!”
Mondott nekik Jancsi ilyen megköszöntést:
Erre a zsiványok fegyverhez kapának,
Jancsinak rohantak, s szólt a kapitányok:
“Szerencsétlenségnek embere, ki vagy te?
Hogy lábadat mered tenni e küszöbre.
Vannak-e szüleid? van-e feleséged?
Akármid van, nem fog többé látni téged.”
Jancsinak sem szíve nem vert sebesebben
E szókra, sem nem lett haloványabb színben;
A zsiványkapitány fenyegetésire
Meg nem ijedt hangon ily módon felele:
“Akinek életét van miért félteni,
Ha e tájt kerüli, nagyon bölcsen teszi.
Nekem nem kedves az élet, hát közétek,
Bárkik vagytok, egész bátorsággal lépek.
Azért, ha úgy tetszik, hagyjatok életben,
Hagyjatok ez éjjel itten megpihennem;
Ha nem akarjátok ezt: üssetek agyon,
Hitvány életemet védeni nem fogom.”
Ezt mondta, nyugodtan a jövendőt várva,
A tizenkét zsivány csodálkozására.
A kapitány ilyen szókat váltott véle:
“Egyet mondok, öcsém, kettő lesz belőle;
Te derék legény vagy, azt a bátor szented!
Téged az isten is zsiványnak teremtett.
Éltedet megveted, a halált nem féled…
Te kellesz minekünk… kezet csapunk véled!
Rablás, fosztogatás, ölés nekünk tréfa,
E derék tréfának díja gazdag préda.
Ez a hordó ezüst, ez meg arany, látod?…
Nos hát elfogadod a cimboraságot?”
Furcsa dolgok jártak Jancsi elméjében,
S tettetett jókedvvel szólt ilyeténképen:
“Cimborátok vagyok, itt a kezem rája!
Rút életemnek ez a legszebb órája.”
“No, hogy még szebb legyen,” felelt a kapitány,
“Lássunk, embereim, az áldomás után;
Papok pincéjéből van jó borunk elég,
Nézzük meg a kancsók mélységes fenekét!”
S a kancsók mélységes fenekére néztek,
S lett eltemetése fejükben az észnek;
Maga volt csak Jancsi, ki mértéket tartott,
Kinálgatták, de ő aprókat kortyantott.
Álmot hozott a bor latrok pillájára…
Jancsinak sem kellett több, ő csak ezt várta.
Mikor a zsiványok jobbra, balra dőltek,
Jancsi a beszédet ilyformán kezdé meg:
“Jó éjszakát!… nem kelt föl titeket sem más,
Majd csak az itéletnapi trombitálás!
Élete gyertyáját soknak eloltátok,
Küldök én örökös éjszakát reátok.
Most a kincses kádhoz! Megtöltöm tarisznyám,
Hazaviszem neked, szerelmes Iluskám!
Cudar mostohádnak nem lész többé rabja,
Feleségül veszlek… isten is akarja.
Házat építtetek a falu közepén,
Ékes menyecskének odavezetlek én;
Ottan éldegélünk mi ketten boldogan,
Mint Ádám és Éva a paradicsomban…
Istenem teremtőm! mit beszélek én itt?
Zsiványoknak vigyem el átkozott pénzit?
Tán minden darabhoz vérfoltok ragadtak.
S én ilyen kincsekkel legyek boldog, gazdag?
Hozzájok sem nyúlok… azt én nem tehetem,
Nincs elromolva a lelkiismeretem. –
Édes szép Iluskám, csak viseld terhedet,
Bízd a jóistenre árva életedet!”
Mikor elvégezte Jancsi a beszédet,
Az égő gyertyával a házból kilépett,
Meggyujtá födelét mind a négy szögleten,
Elharapózott a mérges láng sebesen.
Egy láng lett a födél szempillantás alatt,
A láng piros nyelve az ég felé szaladt,
Feketévé vált a tisztakék égi bolt,
Elhaloványodott a teljes fényü hold.
A szokatlan világ amint elterjedett,
Fölriasztotta a baglyot, bőregeret;
Kiterjesztett szárnyak sebes susogása
A falombozatok nyugalmát fölrázta.
A föltámadó nap legelső sugára
Lesütött a háznak füstölgő romjára,
Pusztult ablakán át benézett a házba,
Ott a haramjáknak csontvázait látta.
Dịch
Có lẽ đêm đã gần khuya rồi đó
Đập mắt anh một ánh lửa chập chờn
Anh thấy khi anh đến gần hơn
Thì đúng ánh lửa soi một cửa sổ trong rừng thẳm
Giăng trông ánh lửa và Giăng lập luận:
“Hoặc tôi nhầm to, hoặc ánh lửa nơi kia
Là ánh lửa một quán xa
Ta vào nghỉ đêm, tôi cần nghỉ lắm”
Giăng đã nhầm. Không phải là ngôi quán
Mà chính sào huyệt của kẻ trộm, mười hai tên
Nhà không phải vắng không
Mười hai tên trộm quần áo chỉnh tề ngồi đó
Khuya khoắt kẻ trộm có súng, có dao mã tấu
Phải xét kỹ, không phải chuyện để cười chơi
Nhưng lòng Giăng muốn biết rõ việc đời
Sự nguy hiểm giục anh, làm anh càng muốn đến
Giăng nói với họ những lời chúc tụng:
“Tôi xin kính chào tất cả các ông!”
Anh bỗng thấy đám người ăn trộm rộn ràng lên
Họ đổ dồn về phía Giăng. Tên đầu đàn đứng hỏi:
“Thằng kia, đứng lại! Mày ở đâu tới
Mày là ai mà dẫm chân lên ngưỡng cửa này?
Bố mẹ mày đâu? Mày có vợ hay chưa?
Chẳng ai trong nhà mày sẽ còn thấy mày nữa đó!”
Giăng nghe những lời mắng mỏ
Mặt anh xám lại, tim đập mạnh hơn
Nhưng nghe tiếng doạ dẫm của tên đầu đàn
Giọng không núng anh lên tiếng trả lời:
“Những ai sợ chết ở trong đời
Thì chốn này khôn hơn nên lẩn tránh
Còn tôi, tôi không thiết gì cuộc sống
Dù các ông là ai, tôi cũng xin can đảm vào đây
Đêm nay để tôi ngủ dưới mái nhà này
Để cho tôi sống. Tuỳ các ông quyết định
Hoặc đánh tôi đi, giết tôi đi nếu các ông muốn
Đời tôi không quý lắm: bảo vệ làm chi?”
Anh nói, rồi bình tĩnh anh chờ
Những tay kẻ trộm lấy làm lạ lắm
Tên đầu đàn bỗng trả lời dịu giọng:
“Ta nói ít, ta nói cho đúng, em ơi
Em là một cậu trai cao thượng, ta nói thật lời
Trời sinh em để đi ăn trộm như các bác
Em khinh rẻ cuộc đời, em không sợ chết
Nào bắt tay, các bác cần những kẻ như em đây!
Trộm, cướp, giết người chỉ là những trò chơi
Nhưng trò chơi cao thượng, mang về nhiều của
Thùng đầy vàng bạc, em nhìn thấy chứ?
Thế nào, em muốn vào phường bạn hay không?”
Đầu óc Giăng cứ thế rối bùng
Anh làm bộ tươi cười, anh nói:
“Thưa các anh, tay em đây, chúng ta cùng hội
Đây ngày đẹp nhất cuộc đời chó chết của em!”
Tên đầu đàn nói tiếp: “Để nó đẹp hơn
Các con ơi, chúng ta cùng nâng cốc
Kho rượu nhà thờ có nhiều rượu tốt
Ơn Trời, ta hãy mở các bình rượu của ta”
Các chum rượu ngon lành làm sao
Đến nỗi trí khôn đều ngụp vào cốc rượu
Giăng, chỉ có Giăng là còn điều độ
Anh chạm cốc, nhưng nào có uống bao nhiêu
Rượu uống vào, giấc ngủ vào theo
Giăng không muốn gì hơn, chỉ chờ có vậy
Khi anh thấy kẻ trộm nằm ngổn ngang đây đấy
Giăng bèn nói với chúng như sau:
“Ngủ ngon nhé! vì chẳng gì đánh thức được đâu
Nếu không phải là tiếng kèn Ngày Xử Tội
Bao nhiêu cuộc đời bị chúng bay làm ngắc ngoải
Đến lượt tao cho bay vào hẳn đêm dài
Còn vàng bạc! Ta nhét vào bao đây
Và mang về cho I-lu dịu ngọt
Giải phóng em ra khỏi mụ dì ác nghiệt
Cho nó đi đời! Và Trời muốn anh lấy em
Này ngôi nhà mới giữa xóm thôn
Em mặc đẹp, một chiều đẹp, anh dẫn em đến đó
Ở đó trôi những ngày vui của hai đứa
Như Ê-va và A-đam trên thiên đường
Nhưng Chúa ơi, tôi nói gì? Tôi nói thế chăng?
Tôi mà lấy của kẻ trộm những bạc vàng tội lỗi
Mỗi thoi bạc vàng đều nằm trong máu dội
Sao? Tôi còn dính làm chi đến của cải này!
Tôi không muốn cầm, không muốn sờ tay
Lương tâm tôi, vững vàng còn đứng đó
I-lu xinh đẹp, dịu dàng, em cứ đeo cây thánh giá
Em gửi cuộc đời em côi cút cho Đức Chúa Trời!”
Khi Giăng đã nói hết lời
Cây nến cầm tay, anh rời ngưỡng cửa
Bốn góc mái nhà gianh anh châm lửa
Ngọn lửa bốc cháy vội vàng
Trong nháy mắt, một bó đuốc: mái nhà gianh
Ngọn lửa vút trời cao vòi vọi
Nền trời xanh thành một bức trần đen rói
Mảnh trăng rằm chỉ còn như chiếc đĩa nhạt nhờ
Ánh lửa mênh mông trận cháy nhà
Làm cho cú vọ, cho dơi khiếp sợ
Tiếng cánh bay đập vào nhau bỡ ngỡ
Kéo lá cây ra khỏi giấc ngủ yên lành
Ánh ngời tảng sáng mặt trời lên
Rọi đống củi tàn ngôi nhà cháy
Lách qua khung nát một cửa sổ
Nó nhìn từng thằng vô lại cháy sém bộ xương người
8
Nos hát ment a sereg, csak ment, csak mendegélt,
Tatárországnak már elérte közepét;
De itten reája nagy veszedelem várt:
Látott érkezni sok kutyafejű tatárt.
Kutyafejű tatár népek fejedelme
A magyar sereget ekkép idvezelte:
“Hogy mikép mertek ti szembeszállni vélünk?
Tudjátok-e, hogy mi emberhússal élünk?”
Nagy volt ijedtsége szegény magyaroknak,
Minthogy a tatárok ezerannyin voltak;
Jó, hogy akkor azon a vidéken jára
Szerecsenországnak jószívű királya.
Ez a magyaroknak mindjárt pártját fogta,
Mert Magyarországot egyszer beutazta,
S ekkor Magyarország jámbor lelkü népe
Igen becsületes módon bánt ővéle.
El sem feledte ezt a szerecsen király:
Azért a magyarok védelmére kiáll,
S a tatár császárral, kivel jóbarát volt,
Kiengesztelésűl ily szavakat váltott:
“Kedves jóbarátom, ne bántsd e sereget,
Legkisebbet sem fog ez ártani neked,
Igen jól ismerem én a magyar népet,
Kedvemért bocsásd át országodon őket.”
“A kedvedért, pajtás, hát csak már megteszem.”
Szólt kibékülve a tatár fejedelem,
De még meg is írta az úti levelet,
Hogy senki se bántsa a magyar sereget.
Az igaz, hogy nem is lett semmi bántása,
De mégis örűlt, hogy elért a határra,
Hogyne örűlt volna? ez a szegény vidék
Egyebet se’ terem: medvehúst meg fügét.
Dịch
Và cứ như thế đoàn quân đi
Nó đã vào giữa đất Tác-ta rồi đó
Nhưng nỗi nguy lớn rình chờ đoàn quân nọ
Đó là những đám mây nham hiểm xứ Tác-ta
Chúa Tác-ta nét mặt bạo tàn
Gửi đoàn quân Hung lời chào ngổ ngáo:
“Các anh sao can đảm chạm vào quân lão?
Các anh không biết ta thích chén thịt người?”
Đoàn lính Hung sợ khiếp đi thôi
Quân đội Tác-ta sao nhiều đến thế
Nhưng cũng may đúng vào lúc đó
Vua bộ lạc Xa-ra-đanh đi ngang qua
Vua ấy bảo vệ đoàn quân ta
Ở Hung người đã đi chơi thăm đất nước
Và nhân dân Hung vui thích
Đã từng đối xử tốt hơn ai hết với nhà vua
Vua Xa-ra-đanh không quên được bao giờ
Cho nên với đoàn quân Hung ông giúp
Với chúa Tác-ta bạn thân chí thiết
Vua can ngăn, vua nói những lời sau:
“Hãy để đoàn quân nó yên, không sao đâu
Bạn thân ơi, nó sẽ không quấy rầy gì bạn
Nhân dân Hung và tôi, đã từng quen biết
Bạn làm ơn cứ để đoàn quân đi qua”
Dịu lời hãy nghe tiếng chúa Tác-ta:
“Được rồi, thôi để làm vui lòng bạn tốt”
Không những thế, chúa còn cho một tờ hộ chiếu
Để đi không bị rắc rối trên đường
Sự thật, không xảy việc gì phiền lòng
Và khoan khoái bao nhiêu khi đến biên giới
Cũng còn tí việc này: xứ đây nghèo quá đỗi
Muốn ăn chỉ có gấu và quả si
9
Tatárország hegyes-völgyes tartománya
Messziről nézett a seregnek utána,
Mert jól bent vala már nagy Taljánországban,
Rozmarínfa-erdők sötét árnyékában.
Itt semmi különös nem történt népünkkel,
Csakhogy küszködnie kellett a hideggel,
Mert Taljánországban örökös tél vagyon;
Mentek katonáink csupa havon, fagyon.
No de a magyarság erős természete,
Bármi nagy hideg volt, megbirkózott vele;
Aztán meg, ha fáztak, hát kapták magokat,
Leszálltak s hátokra vették a lovokat.
Dịch
Xứ Tác-ta đầy cả núi đồi
Không còn nhìn thấy đoàn quân ta nữa
Đoàn quân ta đi vào lòng nước Ý
Dưới bóng dày rừng rậm cây xanh
Ở đấy không gì đáng nói ngoài chuyện kỵ binh
Bị rét mướt căm căm ghê gớm
Mùa đông nước này kéo dài suốt năm suốt tháng
Và quân ta chỉ đạp tuyết dẫm băng
Nhưng sao! ai nói người Hung là nói tính khỏe lành
Rét đến đâu cũng là chịu được
Nếu có lập cập anh run, việc càng giản dị
Anh đứng chân xuống đất, anh vác ngựa trên lưng
Anh mộng thấy chiến tranh
Háborúval álmodám az éjjel,
Háborúba hítták a magyart;
Fölhivó jelül, mint hajdanában,
Országszerte járt a véres kard.
S fölriadt a véres kard láttára,
Akinek csak egy csepp vére volt.
A szabadság drága koszorúja,
Nem hitvány pénz volt a harci zsold.
Épen e nap volt menyegzőnk napja,
Az enyém, leányka, s a tiéd;
S én, hogy haljak a honért, elhagytam
Házasságunk első éjjelét.
Úgye, lyányka, a menyegző napján
Menni és meghalni, szörnyű vég?
És mégis, ha rákerülne a sor,
Ugy tennék, mint álmomban tevék.
Dịch
Đêm nay anh mộng thấy chiến tranh
Tất cả người Hung đều đứng dậy
Dấu hiệu kết đoàn xưa đã thấy
Lưỡi gươm dấy máu vẫy không gian
Ai đã thấy gươm đều giật nẩy
Miễn còn máu nóng trong tim ta
Chẳng tại đồng lương mà chiến đấu
Nhưng vì vinh dự của tự do
Chính ngày đám cưới đôi ta
Ngày em sung sướng cũng là ngày anh
Tối đầu thao thức năm canh
Anh nguyền đem hiến tuổi xanh cho đời
Dày vò bao xiết em ơi
Đi ra chết trận khi đời còn vui
Nhưng giờ Tổ quốc lâm nguy
Thì anh cũng sẽ ra đi, như mộng thấy rồi
Biển động
Föltámadott a tenger,
A népek tengere;
Ijesztve eget-földet,
Szilaj hullámokat vet
Rémítő ereje.
Látjátok ezt a táncot?
Halljátok e zenét?
Akik még nem tudtátok,
Most megtanulhatjátok,
Hogyan mulat a nép.
Reng és üvölt a tenger,
Hánykódnak a hajók,
Sűlyednek a pokolra,
Az árboc és vitorla
Megtörve, tépve lóg.
Tombold ki, te özönvíz,
Tombold ki magadat,
Mutasd mélységes medred,
S dobáld a fellegekre
Bőszült tajtékodat;
Jegyezd vele az égre
Örök tanúságúl:
Habár fölűl a gálya,
S alúl a víznek árja,
Azért a víz az úr!
Dịch
Biển động
Biển mênh mông các dân tộc dâng cao
Sóng quật
Rung rinh trái đất
Hắt bọt lên trời
Anh thấy chăng điệu vũ kia?
Anh nghe chăng bản nhạc?
Ngày xưa anh chưa biết
Ngày nay anh học đi!
Để biết thế nào các dân tộc reo cười!
Cuồng điên thịnh nộ
Biển đập vỡ tàu
Chôn tàu đáy vực
Cột buồm gãy rắp
Lá buồn rách tan tành
Anh cứ sâu sắc hờn căm
Dâng cao nữa lên, hỡi cơn hồng thuỷ!
Dòng nước lũ
Vứt tung bọt sóng
Lên đến trời cao!
Nhớ ghi lên bầu trời
Bài học nghìn đời:
Dù thuyền hãnh diện trôi trên mặt biển
Nhưng chính sóng ngầm
Sẽ có thể lật đổ thuyền anh!
Cái chết đến (trích) Jött a halál
Jött a halál, hogy elsöpörjön minket
A föld szinéről, jött a döghalál,
Reánk lehelte rothadó lelkéből
Azt sátándühhel a gonosz király.
Tombolt a vész irtóztató erővel
A végitélet végórájaként,
És ím mi élünk még és nem halánk meg,
Csak meghajoltunk, de el nem törénk!
Él a magyar még, áll a hon, s hol egykor
Olyan halotti volt a hosszu csend,
Minő zajt üt most ott a harcoló kard!
Minden csengése egy világra cseng!
Oh népem, eddig önmagad se tudtad,
Hogy létezel, s most tudja a világ:
Utósó voltál, s íme a legelsők,
Most még ők is bámulva néznek rád.
Melyik magyar nem szégyenlé előbb hogy
Sors átkából magyarnak született?
S melyik nem büszke most reá, hogy isten
Kegyelméből e nemzet tagja lett?
Méltóbb vagy a legdrágább koszorúra,
Mint bárki más, méltóbb vagy igazán;
Oh hol keressek, hol lelek virágot,
Dicső fejedre illőt, szent hazám?
Dịch
Cái chết đến để gạt ta
Ra khỏi các quốc gia trên thế giới
Hơi thở thối của thằng vua điên dại
Làm nặng nề không khí quanh ta
Bão táp dồn dập vào ta
Như ngày bị xử tội
Nhưng chúng ta còn đang sống
Ta quắp người dưới gánh nặng, nhưng hắn không dập gãy được ta
Người Hung đứng thẳng trên Tổ quốc hồi xuân
Nơi ngày xưa bao phủ trong lặng im của cái chết
Không khí đã rung của chiến tranh tiếng thét
Tiếng vũ khí vang dội ra xa
Cho đến nay, anh không biết có anh nữa, hỡi dân tộc ta
Và bây giờ cả hoàn cầu đã biết tên anh rồi đó
Trong các dân tộc, anh là kẻ đứng cuối cùng
Và bây giờ, cả hoàn cầu ca ngợi chiến công anh
Người Hung ngày xưa rủa nguyền mệnh số
Đã làm tội anh phải mang tên đó
Ngày nay, anh được trời ban ơn
Đã cho anh đẻ làm người Hung
Tổ quốc ơi, anh xứng đáng với mũ triều thiên bất diệt
Xứng đáng hơn quốc gia nào hết
Và tôi không tìm đâu ra những đóa hoa đẹp hơn
Để đội lên trán anh ngời rạng quang vinh
Chiếc xe bốn con bò kéo
Nem Pesten történt, amit hallotok.
Ott ily regényes dolgok nem történnek.
A társaságnak úri tagjai
Szekérre ültek és azon menének.
Szekéren mentek, de ökörszekéren.
Két pár ökör tevé a fogatot.
Az országúton végig a szekérrel
A négy ökör lassacskán ballagott.
Világos éj volt. A hold fenn vala;
Halványan járt a megszakadt felhőkben,
Miként a bús hölgy, aki férjinek
Sírhalmát keresi a temetőben.
Kalmár szellő járt a szomszéd mezőkön.
S vett a füvektől édes illatot.
Az országúton végig a szekérrel
A négy ökör lassacskán ballagott.
A társaságban én is ott valék,
S valék szomszédja épen Erzsikének,
A társaságnak többi tagjai
Beszélgetének s énekelgetének.
Én ábrándoztam s szóltam Erzsikéhez:
“Ne válasszunk magunknak csillagot?”
Az országúton végig a szekérrel
A négy ökör lassacskán ballagott.
“Ne válasszunk magunknak csillagot?”
Szólék én ábrándozva Erzsikéhez.
“A csillag vissza fog vezetni majd
A mult időknek boldog emlékéhez,
Ha elszakaszt a sors egymástul minket.”
S választottunk magunknak csillagot.
Az országúton végig a szekérrel
A négy ökör lassacskán ballagott.
Dịch
Chuyện đẹp như thế này
Thủ đô ta ít có
Đường của ta lộng gió
Nẻo dài vắt vẻo ngồi xe
Bốn con bò đi, nặng nề bước một
Đêm trong chiếu sáng một vầng
Trăng kia nhẹ lướt trên tầng mây bông
Vợ ai đi kiếm mộ chồng
Hay làn gió thoảng trên đồng cỏ tươi
Hương thơm toả ngát lưng trời
Bốn con bò kéo, đường dài bước một
Tôi ngồi trên xe cùng bạn tốt
Tôi ngồi bên cạnh Ê-va
Người người vui hát gần xa chuyện trò
Chập chờn đôi mắt tôi mơ
Ghé tai khẽ bảo nàng cho tự tình:
“Không ngắt lấy vì sao xinh
Về cho đôi lứa chúng mình vui chơi?”
Bốn con bào kéo dài hơi
Đường xa bước một chân lôi nặng nề
Bên nàng tôi nói tỉ tê:
“Không ngắt vì sao xa
Về cho đôi lứa chúng ta vui vầy?
Mà sau có phải chia tay
Em, anh có phải cách ngày cách đêm
Sao kia sẽ dẫn đường tìm
Nhớ ngày đôi trẻ trao duyên tự tình”
Chúng tôi giơ tay ngắt
Một vì sao cho đôi lứa chúng tôi
Trên xe ấm áp cùng ngồi
Bốn con bò kéo, đường dài bước một
Đại bác nổ bốn ngày liên tiếp
Négy nap dörgött az ágyu
Vizakna s Déva közt,
Ott minden talpalatnyi
Földet vér öntözött.
Fehér volt a világ, szép
Fehér hó este be,
Ugy omlott a piros vér
A fehér hóra le.
Négy hosszu nap csatáztunk
Rettentő vad csatát,
Minőt a messzelátó
Nap csak nagynéha lát.
Mindent megtettünk, amit
Kivánt a becsület…
Tízannyi volt az ellen,
Győznünk nem lehetett.
Szerencse és az isten
Tőlünk elpártola,
Egy pártfogó maradt csak
Velünk: ez Bem vala.
Oh Bem, vitéz vezérem,
Dicső tábornokom!
Lelked nagyságát könnyes
Szemekkel bámulom.
Nincsen szóm elbeszélni
Nagy hősiségedet,
Csak néma áhitattal
Szemléllek tégedet,
S ha volna ember, kit mint
Istent imádanék,
Meghajlanék előtted
Térdem, meghajlanék.
S nekem jutott a vészes
Dicsőség, hogy veled
Járjam be, oh vezérem,
A csatatéreket.
Te melletted lovaglék
A harc veszélyiben,
Ahol az élet pusztul
És a halál terem.
Sokan elhagytanak, te
Rendíthetetlen agg,
De úgy-e téged, úgy-e
Én el nem hagytalak?
S lépésid mind halálig
Követni is fogom,
Oh Bem, vitéz vezérem,
Dicső tábornokom!
Dịch
Đại bác nổ bốn ngày liên tiếp
Giữa Vi-dắc-na và Đê-va
Trên chiến trường
Mỗi hòn đất đều tơi bời đẫm máu
Chung quanh ta thảy đều trắng toát
Tuyết rơi phủ khắp các cánh đồng
Chỉ có màu đỏ ố hoen
Bức thảm trắng mênh mông xa tít
Không phút nghỉ ngơi trong bốn này liên tiếp
Ta chiến đấu ác liệt
Mặt trời thấy hết mọi thứ xưa nay
Cũng chưa hề thấy cuộc chiến đấu ác liệt này
Chúng ta chiến đấu như bão táp
Để bảo toàn danh dự, cờ Tổ quốc giơ cao
Nhưng chúng ta không thể thắng
Quân địch mười lần đông hơn ta
Lần này, sự may mắn và Chúa Trời
Đều không làm ta thắng giặc
Chỉ còn một bàn tay giúp đỡ
Bem, người chỉ huy ta, vẫn vững đến phút cuối cùng
Ôi Bem, người chỉ huy anh dũng của tôi
Vị đại tướng quang vinh của tôi
Tôi ngợi ca sự cao quý của lòng Người
Và nước mắt vui cực độ tràn hai má
Tôi không đủ chữ
Để tả lòng can đảm của Người
Phấn khởi đầy lòng tôi
Tôi ngợi ca Người, trầm lặng
Nếu tôi có thể sùng bái một người
Ngang một thần linh
Vì công ơn Người xứng đáng
Tôi sẽ sụp quỳ dưới chân Người
Tôi được
Cái vinh hạnh đầy hiểm nguy
Đi bên cạnh Người
Đến các chiến trường
Trên ngựa chiến tôi đi theo Người
Đến giữa các trận mạc
Ở đó cuộc sống con người không đáng kể
Và cái chết đem đến cho nhân dân những mùa gặt lớn
Nhiều người rời bỏ Người
Người – vị lão thành anh dũng,
Nhưng tôi, chính Người đã làm chứng
Tôi đi theo Người trung thành như cái bóng
Từ đây tôi không rời xa Người nữa
Cho đến hết đời tôi
Ôi Bem, vị chỉ huy anh dũng
Vị đại tướng quang vinh
Qua bài viết chúng ta thêm phần ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa và kiệt xuất của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Thật không hổ danh là một trong những nhà thơ hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!