Nguyễn Xuân Sanh là một gương mặt nổi bật trong phong trào thơ mới. Ông sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920 tại Đà Lạt. Ông luôn trăn trở tìm tòi để đến với cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật. Ông cách tân thơ bằng sự phá bỏ tính liên tục và thay bằng tính gián đoạn, gây một âm hưởng mới lạ làm ngỡ ngàng người đọc đã quen với sự truyền cảm của thơ mới. Ngoài sáng tác thơ ông còn có một chùm thơ dịch nổi tiếng khẳng định khả năng hiểu biết ngôn nữ của mình được mọi người tán thưởng. Hãy cùng tapchivannghe.com khám phá kho tàng văn thơ của ông nhé!

Thời gian bị vây trong khói lửa

Nếu tôi lại thành em bé gái
Móng tay đen lam lũ nhọc nhằn
Xây trong cát hầm sâu sâu mãi
Mắt nhìn thấy vạch đỏ lăn tăn
Hạt cườm bạc mắt ai sáng chói
Tôi đã thành cô bé nết na
Đi một đêm vòng quanh thế giới
Đến tận nước Trung Hoa
Đến tận Madagasca
Như em làm vỡ tung đĩa bát
Do quá yêu
Do quá yêu
Do quá yêu

Khóc đi Pleur

Pleur. Ta route est longue
Pleur. Ton fardeau est lourd
Pleur surtout: Ta peau est noire
Et pourtant
Chanter c’est ta vie
Danser ta joie
Aimer ton désir

Dịch

Khóc đi. Con đường đè nén bạn dài lâu
Khóc đi. Gánh trên vai bạn còn nặng
Khóc, nhất là: Da bạn thì đen
Sống
Hát ca là đời bạn
Múa là niềm vui của bạn
Yêu thương là nỗi bạn khát thèm.

Những giờ

Il y a des heures pour rêver
Dans l’apaisement des nuits au creux du silence
Il y a des heures pour douter
Et le lourd voile des mots se déchi re en sanglots
Il y a des heures pour souffrir
Le long des chermins de guerre dans le regard des mères
Il y a des heures pour aimer
Dans les cases de lumière òu chante la chair unique
Il y a ce qui colore les jours à venir
Comme le soleil colore la chair des plantes
Et dans le déli re des heure
Dans l’empatience des heure
Le germe toujours plus fécond
Des heures d’òu naitra l’équilibre

Dịch

Có giờ dành để mơ màng
Trong đêm thanh tịnh muôn vàn lặng im
Có giờ ngờ vực không tin
Biết bao chữ nghĩa xé mình khóc đau
Có những giờ để khổ sầu:
Trên đường chinh chiến, mắt sâu mẹ già
Có giờ để yêu thiết tha
Trong lều ánh sáng, đôi ta vui vầy
Ngày mai sắc sẽ đổi thay
Như mặt trời nhuộm thân cây thắm màu
Trong sốt ruột, giờ đi mau
Trong cơn cuồng loạn dài lâu của giờ
Nảy mầm rộn rã không ngờ
Những giờ tạo cảnh sống cho thanh bình.

Rama Kam 

Me plait ton regard de fauve
Et ta bouche à la saveur de mangue
Rama Kam
Ton corps est le piment noir
Qui fait chanter le désir
Rama Kam
Quand tu passes
La plus belle est jalouse
Du rythme chaleureux de tes hanches
Rama Kam
Quand tu danses
Le tam tam Rama Kam
le tam tam tendu comme un sexe de victoire
Halète sous les doigts bondissants du griot
Et quand tu aimes Rama Kam
C’est la tornade qui tremble
Dans ta chair de nuit d’éclairs
Et me laisse plein du souffre de toi
O Rama Kam

Dịch

Đôi mắt thú rừng của em làm anh thích
Và môi em có mùi vị xoài thơm
Rama Kam
Thân thể em là quả ớt đen
Nó giục nỗi khát thèm ca hát
Rama Kam
Khi em đi ngang qua
Người thiếu nữ kiều diễm nhất bèn nổi cơn ghen
Lúc cô ngắm cái nhịp điệu ấm nồng của hông em
Rama Kam
Khi em múa
Mặt trống, hỡi Rama Kam
Mặt trống căng lên như một chủng tính kiên cường
Thở hổn hển dưới ngón tay phập phồng thầy pháp
Và khi em yêu đương
Khi em yêu đương, hỡi Rama Kam
Thì chính là gió bão bên bờ run rẩy
Trong da thịt em ban đêm toả rực
Nó để lại nơi anh đầy cả hơi thở của em
Hỡi Rama Kam

Bài hát một đêm mưa

Un homme attendait
d’aimer.
Les cloches au loin
carillonnaient.
Sans espoir
l’homme attendait.
Toute porte fermée
garde son secret
Un homme pleure
l’aimée…

Dịch

Một người chờ dợi
yêu đương
Tiếng chuông nơi xa
hoà âm
Người ấy đợi chờ
vô vọng
Mọi cửa đều đóng
bí mật kín bưng
Người đàn ông khóc
người yêu của anh

Bài hát người đàn bà ngồi

C’est une femme assise
Rongée des soleils.
Ses larmes autrefois
ont boisé la terre.
Son cœur est en feu.
C’est une femme assise
Sur mes genoux. Distraite,
Elle compte les jours.

Dịch

Là người đàn bà ngồi
bị mặt trời gặm nhấm
Nước mắt chị từ xưa
Đã trồng cây cho đất
Trái tim chị cháy lửa
Là người đàn bà ngồi
Trên gối tôi. Lơ đễnh
Chị đếm ngày đi qua

Cuối thu Късна есен

Витоша е до полите скрита
в непрозирен сивобял воал.
Не искри извитото Копито,
нито се белее Камен дял.

Развилня се вятър октомврийски,
затъка земята жълт килим,
припълзяха облаците тихо.
От комините заблика дим.

Алената ябълка, обрана,
рони и последните листа.
По пътеката от тях застлана,
се разхожда вкъщи есента.

Тази нощ пламтящите гергини
порази прибързала слана
и в посърналата изведнъж градина
сякаш угасиха светлина.

Къщата капаците затвори,
както хлопват се очи за сън.
Хлопна се и портата на двора —
някой тръгна в тъмнината вън.

Някой по пътеката заслиза
към града, потрепващ в светлини,
за да бъде с хората по-близо,
с техните — да слее свойте дни.

Dịch

Dãy Vitôsa bao bọc
Màu trắng đục sa mù
Không chói đỉnh Kapitôn
Không rạng Kamen núi dốc
Gió tháng mười thổi gấp
Đất dệt tấm thảm vàng
Khói lò sưởi bốc tràn
Mây là bay tới tấp
Cây anh đào trụi quả
Thả rơi đám lá tàn
Hẻm mòn, lá lả tả
Thu sướt mướt lê chân
Đêm, heo may man mác
Lùa gãy hải đường nở hoa
Ngôi vườn bỗng xơ xác
Như ánh sáng bị nhoà
Các cửa nhà khép chặt
Như giấc ngủ khép đôi mắt
Tiếng kẽo kẹt ngoài cổng vườn
Trong đêm ai mới lên đường
Ai đi xuống lối nhỏ
Về thành phố ánh đèn
Gặp những người thân quen
Gửi đời mình vô đời họ

Đất nước tôi tươi đẹp

Đất nước đẹp như mơ
Bờ đen và bờ trắng
Buổi sáng ngươi thức dậy
Bờ lớn, nhỏ chen nhau
Ngươi là sự sống
Ngươi là sự chết
Ngươi là niềm vui
Ngươi là nỗi buồn
Ngươi là sức mạnh
Giọng ngươi ngọt mơn tôi
Ngươi cười không ngăn được
Lời thắm dịu làm sao
Bao sóng nổi bọt trào
Làm tôi nguôi tấc dạ
Làm dâng dậy lòng tôi
Từ sớm ngày đến tối
Dào dạt sóng đập bờ
Bờ cát ngươi mỹ lệ
Ngươi hãy vẫy tay chào
Bãi vỏ sò xinh xắn
Ngươi tò mò đôi mắt
Phải chăng chúng nhập vào
Sự thầm kín khó lường
Của cầu vồng phong cảnh

Gió biển

Ngọn gió biển từ xa
Vuốt ve tôi đằm thắm
Khi hoàng hôn buông xuống
Ngọn gió biển từ xa
Mà đêm đen thổi tới
Hẳn từng làm tôi sợ
Tôi ngồi thuyền độc mộc
Sóng ru đẩy dịu dàng
Tôi hài lòng, nhắm mắt
Tôi lơ lửng dòng trôi
Không hiểu vì sao nữa
Tôi chìm trong xa xôi
Như dường quên quá khứ

Cơn mưa đã từng nói

Cơn mưa đã từng nói
Như trong sách cầu kinh
Các vết đời đau khổ
Đều nạm ngọc trên mình
Cơn mưa từng nhảy múa
Như con gấu thuỷ tinh
Tôi uống rượu nó đắng
Trên mái nhà ướt xanh
Cái bóng dáng cơn mưa
Đẹp khi nó lẩn trốn
Tiếng vang tràn, vô ích
Mưa đẹp, mưa dịu dàng
Ta cho em, mai nhé
Nếu ta chết – trong Tủi Buồn

Mùa thu Automne

Dans le brouillard s’en vont un paysan cagneux
Et son boeuf lentement dans le brouillard d’automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux
Et s’en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d’amour et d’infidélité
Qui parle d’une bague et d’un coeur que l’on brise
Oh! l’automne l’automne a fait mourir l’été
Dans le brouillard s’en vont deux silhouettes grises.

Dịch

Người nông dân vừa đi trong sương mù
Với con bò giữa sớm mai thu
Nó che nỗi thẹn thuồng của thôn nhỏ.
Anh vừa đi vừa hát ngân nga
Bài hát tình yêu và ruồng bỏ
Nhắc chiếc nhẫn và trái tim tan vỡ.
Mùa thu đã giết chết mùa hè
Hai bóng mờ đi trong sương mù làng quê.

Nàng Thu ốm Automne malade

Automne malade et adoré
Tu mourras quand l’ouragan soufflera dans les roseraies
Quand il aura neigé
Dans les vergers
Pauvre automne
Meurs en blancheur et en richesse
De neige et de fruits mûrs
Au fond du ciel
Des éperviers planent
Sur les nixes nicettes aux cheveux verts et naines
Qui n’ont jamais aimé
Aux lisières lointaines
Les cerfs ont bramé
Et que j’aime ô saison que j’aime tes rumeurs
Les fruits tombant sans qu’on les cueille
Le vent et la forêt qui pleurent
Toutes leurs larmes en automne feuille à feuille

Dịch

Mùa thu ta yêu mùa thu tàn tạ
Em sẽ chết khi bão thổi vườn hồng
Khi tuyết trắng rơi bông
Trong vườn quả.
Mùa thu đáng thương
Phong vị trắng tinh và giàu có
Của tuyết băng và trái chín
Sâu trong bầu trời biếc
Đàn chim ưng bay lượn
Trên các thuỷ thần lùn thấp tóc xanh
Chưa bao giờ biết yêu đương
Ở các bìa rừng xa
Nai kêu
Tôi yêu mùa ngàn vạn tiếng ngân ru
Trái cây rơi dù không ai hái
Gió và rừng khóc mãi
Để rơi từng lá từng lá nước mắt mùa thu
Những chiếc lá
Ta giẫm chân lên
Một đoàn tàu hoả
Chạy êm
Cuộc đời
Cứ trôi

“Em yêu ơi, ta với nhau”

Mein Liebchen, wir saßen beisammen,
Traulich im leichten Kahn.
Die Nacht war still, und wir schwammen
Auf weiter Wasserhahn.
Die Geisterinsel, die schöne,
Lag dämmrig im Mondenglanz;
Dort klangen liebe Töne,
Und wogte der Nebeltanz.
Dort klang es lieb und lieber
Und wogt’ es hin und her;
Wir aber schwammen vorüber,
Trostlos auf weitem Meer.

Dịch

Em yêu ơi, ta với nhau
Con đò trôi nhẹ, lòng sâu nâng lòng,
Đêm bình yên, ta thong dong
Bao la trên sóng dập dồn đường sông.
Đảo Tiên Nga đẹp mênh mông,
Trăng xanh dải bóng hiện trong mắt mình,
Nhịp nhàng điệu thoảng lung linh,
Mù sương vũ khúc tươi xinh cung đàn.
Âm giai thắm thiết dịu dàng,
Du dương khúc nhạc tràng giang quay còng,
Đôi ta đành bỏ bên lòng:
Tình ta vô vọng, khoảng không biển dài.

Nguyễn Xuân Sanh cũng như một số ít nhà thơ khác ngoài sáng tác thơ thì còn sở hữu một kho tàng thơ dịch của nhiều thi sĩ vang danh trên thế giới. Qua đó bạn đọc thêm phần yêu thích và hiểu hơn về tài năng của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!