Chùm thơ dịch của Tế Hanh luôn là chủ đề bàn tán của nhiều người trên văn đàn bởi độ độc đáo cùng tinh tế của ông. Nổi bật nhất là chùm thơ dịch của Heinrich Heine, đây được xem là bước thành công nhất của Tế Hanh ở thời điểm bấy giờ. Heinrich Heine là một trong những nhà thơ nổi tiếng ở Đức, được biết đến với những lời thơ, phần lớn trong số đó (đặc biệt là những tác phẩm thời kỳ đầu của ông) đã được chuyển thành lời các bài hát. Heinrich Heine còn là một nhà thơ duy nhất của mọi thời đại và mọi nước có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trên hành tinh này.

“Ai ngày xưa phát minh chiếc đồng hồ”

Sag mir, wer einst die Uhren erfund,
Die Zeitabteilung, Minute und Stund’?
Das war ein frierend trauriger Mann.
Er saß in der Winternacht und sann,
Und zählte der Mäuschen heimliches Quicken
Und des Holzwurms ebenmäßiges Picken.
Sag mir, wer einst das Küssen erfund?
Das war ein glühend glücklicher Mund;
Er küßte und dachte nichts dabei.
Es war im schönen Monat Mai,
Die Blumen sind aus der Erde gesprungen,
Die Sonne lachte, die Vögel sungen.

Dịch

Ai ngày xưa phát minh chiếc đồng hồ
Chia thời gian, chia giờ, chia phút?
Có lẽ đó một người buồn, lạnh nhạt
Trong đêm đông suy nghĩ một mình,
Đếm từng tiếng kêu của lũ chuột rập rình
Từng tiếng côn trùng cắn vào khúc gỗ.
Ai ngày xưa phát minh chiếc hôn?
Có lẽ đó một con người sung sướng,
Đuợc yêu, được hôn không cần liên tưởng.
Trong tháng Năm đẹp đẽ, trong tháng Năm,
Hoa nở lên từ mặt đất âm thầm,
Trên cao mặt trời cười và bầy chim ca hát.

“Cảnh thiên đường không hấp dẫn tôi”

Mich locken nicht die Himmelsauen
Im Paradies, im selgen Land;
Dort find ich keine schönre Frauen
Als ich bereits auf Erden fand.
Kein Engel mit den feinsten Schwingen
Könnt mir ersetzen dort mein Weib;
Auf Wolken sitzend Psalmen singen,
Wär auch nicht just mein Zeitvertreib.
O Herr! Ich glaub, es wör das beste,
Du ließest mich in dieser Welt;
Heil` nur zuvor mein Leibgereste,
Und sorge auch für etwas Geld.
Ich weiß, es ist voll Sünd und Laster
Die Welt; jedoch ich bin einmal
Gewöhnt, auf diesem Erdpechpfaster
Zu schlendern durch das Jammertal.
Genieren wird das Weltgetreibe
Mich nie, denn selten geh ich aus;
In Schlafrock und Pantoffeln bleibe
Ich gern bei meiner Frau zu Haus.
Laß mich bei ihr! Hör ich sie schwätzen,
Trinkt meine Seele die Musik
Der holden Stimme mit Ergötzen.
So treu und ehrlich ist ihr Blick!
Gesundheit nur und Geldzulage
Verlang ich, Herr! O laß mich froh
Hinleben noch viel schöne Tage
Bei meiner Frau im statu quo!

Dịch

Cảnh thiên đường không hấp dẫn tôi
Giữa những người gọi là hạnh phúc
Tôi không thấy những đàn bà đẹp,
Như những người tôi thấy trên đời.
Cả cô tiên đôi cánh đẹp nhất
Không thể nào thay thế vợ tôi;
Ngồi trên mây và đọc kinh thánh,
Tôi chẳng hề mơ ước bao giờ.
Chúa hỡi, tôi cho tốt nhất
Hãy cho tôi trên cõi đời này;
Chữa cho tôi lành bao bệnh tật,
Và cho tôi một ít tiền tiêu.
Tôi biết cõi đời còn quá xấu,
Nhưng mà tôi đã sống quen rồi;
Thân tôi đã nhiều lần chìm nổi
Trên những con đường nước mắt rơi.
Thiên hạ ồn ào, tôi chẳng ngại
Vì tôi đau ốm ít đi ra;
Áo quần cũ kỹ, tôi chỉ thích,
Đóng cửa ngồi bên với vợ nhà.
Cứ để tôi ngồi yên bên vợ,
Tiếng nàng êm dịu tựa lời ca;
Tôi nghe như thể lời hạnh phúc.
Đôi mắt nàng sao quá thật thà!
Chúa ơi! Ít tiền và sức khoẻ
Đó là những cái cần cho tôi!
Hãy để tôi sống yên bên vợ
Tôi chỉ xin ngài có thế thôi!

“Đêm nay tôi mơ thấy” 

Im nächt’gen Traum hab ich mich selbst geschaut,
In schwarzem Galafrack und seidner Weste,
Manschetten an der Hand, als ging’s zum Feste,
Und vor mir stand mein Liebchen, süß und traut.
Ich beugte mich und sagte: »Sind Sie Braut?
Ei! ei! so gratulier ich, meine Beste!«
Doch fast die Kehle mir zusammenpreßte
Der langgezogne, vornehm kalte Laut.
Und bittre Tränen plötzlich sich ergossen
Aus Liebchens Augen, und in Tränenwogen
Ist mir das holde Bildnis fast zerflossen.
O süße Augen, fromme Liebessterne,
Obschon ihr mir im Wachen oft gelogen,
Und auch im Traum, glaub ich euch dennoch gerne!

Dịch

Đêm nay tôi mơ thấy
Mình ăn mặc rất sang
Như trong một tiệc cưới
Trước mặt tôi là nàng
Tôi nói: này em ơi
Ta sắp thành chồng vợ
Tôi bỗng thấy lời tôi
Như nghẹn ngào trong cổ
Nàng bỗng khóc ào lên
Ôi hai con mắt đẹp!
Ban ngày, tôi bị lừa
Đêm mơ tôi vẫn thích

“Họ dày vò thân tôi” 

Sie haben mich gequälet,
Geärgert blau und blaß,
Die einen mit ihrer Liebe,
Die andern mit ihrem Haß.
Sie haben das Brot mir vergiftet,
Sie gossen mir Gift ins Glas,
Die einen mit ihrer Liebe,
Die andern mit ihrem Haß.
Doch sie, die mich am meisten
Gequält, geärgert, betrübt,
Die hat mich nie gehasset,
Und hat mich nie geliebt.

Dịch

Họ dày vò thân tôi,
Họ làm tôi phát cáu,
Người với lòng yêu thương
Người với lòng căm ghét.
Họ đầu độc bữa ăn,
Họ đầu độc chén nước,
Người với lòng yêu thương
Người với lòng căm ghét.
Nhưng cái người dày vò
Và đầu độc tôi nhất,
Chẳng bao giờ yêu tôi,
Cững chẳng bao giờ ghét.

“Nàng chạy như con hươu”

Sie floh vor mir wie ‘n Reh so scheu,
Und wie ein Reh geschwinde!
Sie kletterte von Klipp zu Klipp,
Ihr Haar, das flog im Winde.
Wo sich zum Meer der Felsen senkt.
Da hab ich sie erreichet,
Da hab ich sanft mit sanftem Wort
Ihr sprödes Herz erweichet.
Hier saßen wir so himmelhoch,
Und auch so himmelselig;
Tief unter uns, ins dunkle Meer,
Die Sonne sank allmählich.
Tief unter uns, ins dunkle Meer,
Versank die schöne Sonne;
Die Wogen rauschten drüber hin,
Mit ungestümer Wonne.
O weine nicht, die Sonne liegt Nicht tot in jenen Fluten;
Sie hat sich in mein Herz versteckt
Mit allen ihren Gluten.

Dịch

Nàng chạy như con hươu,
Nhanh nhẹ và man rợ,
Nơi này đến nơi kia,
Mái tóc bay trong gió.
Đến cái vực trên biển,
Tôi duổi kịp nàng,
Và tôi nói dịu dàng
Khiến tim nàng cảm động.
Chúng tôi ngồi trên cao,
Sung sướng như thiên thần,
Biển rì rầm dưới chân,
Mặt trời chiếu dần xuống.
Trong biển tối rì rầm,
Mặt trời chiếu như biển,
Và vang vang tiếng biển
Như thét nỗi vui mừng.
Nàng đứng khóc, mặt trời
Không mất đau giữa sóng,
Trong tim tôi ấm nóng
Mặt trời nấp, nàng ơi!

“Ngày, giờ, và vĩnh viễn”

Stunden, Tage, Ewigkeiten
Sind es, die wie Schnecken gleiten;
Diese grauen Riesenschnecken
Ihre Hörner weit ausrecken.
Manchmal in der öden Leere,
Manchmal in dem Nebelmeere
Strahlt ein Licht, das süß und golden,
Wie die Augen meiner Holden.
Doch im selben Nu zerstäubet
Diese Wonne, und mir bleibet
Das Bewußtsein nur, das schwere,
Meiner schrecklichen Misere.

Dịch

Ngày, giờ, và vĩnh viễn
Chúng đi như ốc sên
Những con sên to tướng
Với cặp vòi vểnh lên
Trong trống không, sương mù
Đôi khi một tia chớp
Dịu dàng và lạ lùng
Như của em ánh mắt
Nhưng nỗi vui bỗng mất
Chỉ còn lại trong tôi
Một ý thức nặng trĩu
Về nỗi khổ trên đời

“Những hoa hồng tái nhạt”

Warum sind denn die Rosen so blaß,
O sprich, mein Lieb, warum?
Warum sind denn im grünen Gras
Die blauen Veilchen so stumm?
Warum singt denn mit so kläglichem Laut
Die Lerche in der Luft?
Warum steigt denn aus dem Balsamkraut
Hervor ein Leichenduft?
Warum scheint denn die Sonn’ auf die Au
So kalt und verdrießlich herab?
Warum ist denn die Erde so grau
Und öde wie ein Grab?
Warum bin ich selbst so krank und so trüb,
Mein liebes Liebchen, sprich?
O sprich, mein herzallerliebstes Lieb,
Warum verließest du mich?

Dịch

Những hoa hồng tái nhạt
Em có hiểu vì đâu ?
Những hoa tím im lặng
Trên cánh đồng xanh màu
Vì sao trên bầu trời
Chim sơn ca than khóc ?
Vì sao đoá hoa thơm
Toả một mùi chết chóc?
Vì sao trên cánh đồng?
Mặt trời buồn ảm đạm
Sao trái đất quạnh hiu
Mang một màu tang xám
Vì sao anh đau khổ?
Em hãy nói dùm anh
Em nói đi, em hỡi
Vì sao em bỏ anh?

“Thuở ấy, tôi có một tổ quốc rất đẹp”

Ich hatte einst ein schönes Vaterland.
Der Eichenbaum
Wuchs dort so hoch, die Veilchen nickten sanft.
Es war ein Traum.
Das küßte mich auf deutsch, und sprach auf deutsch
(Man glaubt es kaum,
Wie gut es klang) das Wort: »ich liebe dich!«
Es war ein Traum.

Dịch

Tổ quốc tôi xưa đẹp
Cây sên mọc rất cao,
Hoa tím khẽ nghiêng đầu,
Ôi giấc mơ ngày trước!
Tổ quốc tôi hôn tôi
Và nói bằng tiếng Đức
“Tôi yêu anh”-sướng thật!
Ôi giấc mơ ngày xưa

“Tôi từng mơ…”

Mir träumte einst von wildem Liebesglühn,
Von hübschen Locken, Myrten und Resede,
Von süßen Lippen und von bittrer Rede,
Von düstrer Lieder düstern Melodien.
Verblichen und verweht sind längst die Träume,
Verweht ist gar mein liebstes Traumgebild’!
Geblieben ist mir nur, was glutenwild
Ich einst gegossen hab in weiche Reime.
Du bliebst, verwaistes Lied! Verweh jetzt auch,
Und such das Traumbild, das mir längst entschwunden,
Und grüß es mir, wenn du es aufgefunden –
Dem luft’gen Schatten send ich luft’gen Hauch.

Dịch

Tôi từng mơ những cơn mơ say đắm
Mơ tóc mây, mơ lá, mơ hoa
Làn môi đẹp, những lời chua chát
Điệu đàn buồn và những bài ca
Những giấc mơ bây giờ tan biến
Cùng ảnh hình đẹp nhất thân yêu
Tôi chỉ còn câu thơ tha thiết
Ghi lại tình tôi một buổi chiều
Lời ca còn lại cũng tan thôi!
Hãy đi theo những giấc mơ đã mất
Chào giùm tôi, nếu như có gặp
Tôi gửi lời theo bóng mây trôi

“Triệu năm…”

Es stehen unbeweglich
Die Sterne in der Höh,
Viel tausend Jahr, und schauen
Sich an mit Liebesweh.
Sie sprechen eine Sprache,
Die ist so reich, so schön;
Doch keiner der Philologen
Kann diese Sprache verstehn.
Ich aber hab sie gelernet,
Und ich vergesse sie nicht;
Mir diente als Grammatik
Der Herzallerliebsten Gesicht.

Dịch

Triệu năm hàng triệu năm rồi
Những ngôi sao ở trên trời đã yêu.
Lời của sao đẹp bao nhiêu
Nhưng mấy ai hiểu ít nhiều em ơi?
Chỉ anh hiểu được mà thôi,
Vì anh học được những lời của em.

“Trong đêm tối đời tôi” 

In mein gar zu dunkles Leben
Strahlte einst ein süßes Bild;
Nun das süße Bild erblichen,
Bin ich gänzlich nachtumhüllt.
Wenn die Kinder sind im Dunklen,
Wird beklommen ihr Gemüt,
Und um ihre Angst zu bannen,
Singen sie ein lautes Lied.
Ich, ein tolles Kind, ich singe
Jetzo in der Dunkelkeit;
Klingt das Lied auch nicht ergötzlich,
Hat’s mich doch von Angst befreit.

Dịch

Trong đêm tối đời tôi
Một ảnh hình đã chói
Hình ấy cũng không còn
Tôi trong đêm vây phủ
Những đứa trẻ trong đêm
Nghe trái tim trĩu nặng
Chúng bỗng hát to lên
Để làm tan lo lắng
Và tôi tôi cũng hát
Trong đêm tối đời tôi
Nếu như không vui được
Tim tôi đỡ bồi hồi

Anh đã thấy

Ich seh im Stundenglase schon
Den kargen Sand zerinnen.
Mein Weib, du engelsüße Person!
Mich reißt der Tod von hinnen.
Er reißt mich aus deinem Arm, mein Weib,
Da hilft kein Widerstehen
Er reißt die Seele aus dem Leib –
Sie will vor Angst vergehen.
Er jagt sie aus dem alten Haus,
Wo sie so gern bliebe.
Sie zittert und flattert – wo soll ich hinaus?
Ihr ist wie dem Floh im Siebe.
Das kann ich nicht ändern, wie sehr ich mich sträub,
Wie sehr ich mich winde und wende;
Der Mann und das Weib, die Seel und der Leib,
Sie müssen sich trennen am Ende.

Dịch

Trong chiếc đồng hồ cát
Cát đã chảy hết rồi,
Người vợ hiền, em hỡi!
Anh sắp chết đến nơi.
Cái chết chia rẽ ta,
Có ích gì, chống lại?
Thân thể lìa linh hồn,
Linh hồn đầy sợ hãi.
Cái chết đuổi linh hồn,
Khỏi căn nhà quen thuộc.
Linh hồn run lẩy bẩy
Hỏi: Tôi sẽ đi đâu?
Ta chống cự được nào,
Vùng vẫy cũng vô ích,
Anh và em cuối cùng
Phải cùng nhau ly biệt.

Cặn bã Lumpentum

Die reichen Leute, die gewinnt
Man nur durch platte Schmeichelein –
Das Geld ist platt, mein liebes Kind,
Und will auch platt geschmeichelt sein.
Das Weihrauchfaß, das schwinge keck
Vor jedem göttlich goldnen Kalb;
Bet an im Staub, bet an im Dreck,
Vor allem aber lob nicht halb.
Das Brot ist teuer dieses Jahr,
Jedoch die schönsten Worte hat
Man noch umsonst – Besinge gar
Mäcenas’ Hund, und friß dich satt!

Dịch

Đối với bọn nhà giàu
Thì buông lời nịnh hót
Đồng tiền, hình nó lép
Nên phải lép mình đi
Trước cục vàng thật to
Đốt trầm hương lên nhé
Hãy vục đầu trong bùn
Và ngợi ca hết lẽ
Năm nay bánh mì đắt
Nói cũng chẳng được nào
Hãy sủa như con chó
Rồi thì vào ăn sau

Chiếc tàu buôn người da đen

I
Der Superkargo Mynheer van Koek
Sitzt rechnend in seiner Kajüte;
Er kalkuliert der Ladung Betrag
Und die probabeln Profite.
»Der Gummi ist gut, der Pfeffer ist gut,
Dreihundert Säcke und Fässer;
Ich habe Goldstaub und Elfenbein –
Die schwarze Ware ist besser.
Sechshundert Neger tauschte ich ein
Spottwohlfeil am Senegalflusse.
Das Fleisch ist hart, die Sehnen sind stramm,
Wie Eisen vom besten Gusse.
Ich hab zum Tausche Branntewein,
Glasperlen und Stahlzeug gegeben;
Gewinne daran achthundert Prozent,
Bleibt mir die Hälfte am Leben.
Bleiben mir Neger dreihundert nur
Im Hafen von Rio-Janeiro,
Zahlt dort mir hundert Dukaten per Stück
Das Haus Gonzales Perreiro.«
Da plötzlich wird Mynheer van Koek
Aus seinen Gedanken gerissen;
Der Schiffschirurgius tritt herein,
Der Doktor van der Smissen.
Das ist eine klapperdürre Figur,
Die Nase voll roter Warzen –
»Nun, Wasserfeldscherer«, ruft van Koek,
»Wie geht’s meinen lieben Schwarzen?«
Der Doktor dankt der Nachfrage und spricht:
»Ich bin zu melden gekommen,
Daß heute nacht die Sterblichkeit
Bedeutend zugenommen.
Im Durchschnitt starben täglich zwei,
Doch heute starben sieben,
Vier Männer, drei Frauen – Ich hab den Verlust
Sogleich in die Kladde geschrieben.
Ich inspizierte die Leichen genau;
Denn diese Schelme stellen
Sich manchmal tot, damit man sie
Hinabwirft in die Wellen.
Ich nahm den Toten die Eisen ab;
Und wie ich gewöhnlich tue,
Ich ließ die Leichen werfen ins Meer
Des Morgens in der Fruhe.
Es schossen alsbald hervor aus der Flut
Haifische, ganze Heere,
Sie lieben so sehr das Negerfleisch;
Das sind meine Pensionäre.
Sie folgten unseres Schiffes Spur,
Seit wir verlassen die Küste;
Die Bestien wittern den Leichengeruch
Mit schnupperndem Fraßgelüste.
Es ist possierlich anzusehn,
Wie sie nach den Toten schnappen!
Die faßt den Kopf, die faßt das Bein,
Die andern schlucken die Lappen.
Ist alles verschlungen, dann tummeln sie sich
Vergnügt um des Schiffes Planken
Und glotzen mich an, als wollten sie
Sich für das Frühstück bedanken.«
Doch seufzend fällt ihm in die Red’
Van Koek: »Wie kann ich lindern
Das Übel? wie kann ich die Progression
Der Sterblichkeit verhindern?«
Der Doktor erwidert: »Durch eigne Schuld
Sind viele Schwarze gestorben;
Ihr schlechter Odem hat die Luft
Im Schiffsraum so sehr verdorben.
Auch starben viele durch Melancholie,
Dieweil sie sich tödlich langweilen;
Durch etwas Luft, Musik und Tanz
Läßt sich die Krankheit heilen.«
Da ruft van Koek: »Ein guter Rat!
Mein teurer Wasserfeldscherer
Ist klug wie Aristoteles,
Des Alexanders Lehrer.
Der Präsident der Sozietät
Der Tulpenveredlung im Delfte
Ist sehr gescheit, doch hat er nicht
Von Eurem Verstande die Hälfte.
Musik! Musik! Die Schwarzen soll’n
Hier auf dem Verdecke tanzen.
Und wer sich beim Hopsen nicht amüsiert,
Den soll die Peitsche kuranzen.«
II
Hoch aus dem blauen Himmelszelt
Viel tausend Sterne schauen,
Sehnsüchtig glänzend, groß und klug,
Wie Augen von schönen Frauen.
Sie blicken hinunter in das Meer,
Das weithin überzogen
Mit phosphorstrahlendem Purpurduft;
Wollüstig girren die Wogen.
Kein Segel flattert am Sklavenschiff,
Es liegt wie abgetakelt;
Doch schimmern Laternen auf dem Verdeck,
Wo Tanzmusik spektakelt.
Die Fiedel streicht der Steuermann,
Der Koch, der spielt die Flöte,
Ein Schiffsjung’ schlägt die Trommel dazu,
Der Doktor bläst die Trompete.
Wohl hundert Neger, Männer und Fraun,
Sie jauchzen und hopsen und kreisen
Wie toll herum; bei jedem Sprung
Taktmäßig klirren die Eisen.
Sie stampfen den Boden mit tobender Lust,
Und manche schwarze Schöne
Umschlinge wollüstig den nackten Genoß –
Dazwischen ächzende Töne.
Der Büttel ist Maître des plaisirs,
Und hat mit Peitschenhieben
Die lässigen Tänzer stimuliert,
Zum Frohsinn angetrieben.
Und Dideldumdei und Schnedderedeng!
Der Lärm lockt aus den Tiefen
Die Ungetüme der Wasserwelt,
Die dort blödsinnig schliefen.
Schlaftrunken kommen geschwommen heran
Haifische, viele hundert;
Sie glotzen nach dem Schiff hinauf,
Sie sind verdutzt, verwundert.
Sie merken, daß die Frühstückstund’
Noch nicht gekommen, und gähnen,
Aufsperrend den Rachen; die Kiefer sind
Bepflanzt mit Sägezähnen.
Und Dideldumdei und Schnedderedeng –
Es nehmen kein Ende die Tänze.
Die Haifische beißen vor Ungeduld
Sich selber in die Schwänze.
Ich glaube, sie lieben nicht die Musik,
Wie viele von ihrem Gelichter.
»Trau keiner Bestie, die nicht liebt
Musik!« sagt Albions großer Dichter.
Und Schnedderedeng und Dideldumdei –
Die Tänze nehmen kein Ende.
Am Fockmast steht Mynheer van Koek
Und faltet betend die Hände:
»Um Christi willen verschone, o Herr,
Das Leben der schwarzen Sünder!
Erzürnten sie dich, so weißt du ja,
Sie sind so dumm wie die Rinder.
Verschone ihr Leben um Christi will’n,
Der für uns alle gestorben!
Denn bleiben mir nicht dreihundert Stück,
So ist mein Geschäft verdorben.«

Dịch

I
Tên lái buôn Văn Cốc
Ngồi trong khoang tính tiền
Hắn tính giá sản vật
Và món lời làm ăn.
“Sơn tốt, tiêu cũng tốt
Ta có ba trăm thùng
Có ngà voi, vàng bột
Quý nhất món da đen.
Sáu trăm tên nhặt được
Trên bờ Xenêgan
Thịt chắc và gân khoẻ
Chẳng khác gì đồng đen.
Ta đổi chúng với rượu
Với chén đĩa thuỷ tinh
Lời tám trăm phần trăm
Chỉ cần một nửa sống
Nếu còn ba trăm mống
Đến cảng Brêdi
Hãng buôn Gôngdalét
Tính trăm đồng một tên”
Bỗng thình lình Văn Cốc
Thức tỉnh cơn mơ tiền
Bác sĩ trên thuyền đến
Tên là Văn Mitxen.
Một con người khô đét
Mũi đỏ như quả cà
“Bác sĩ ơi cho biết
Bọn da đen của ta?”
Bác sĩ vội trả lời
“Tôi đến tin ngài rõ
Đêm nay số từ vong
Lại nhích lên cao quá!
Mỗi ngày chết hai thằng
Lần này chết đến bảy
Tôi đã ghi rõ ràng
Trong sổ, ngài sẽ thấy.
Tôi có khám tử thi
Vì sợ bọn nói dối
Giả chết để ta quăng
Chúng nó xuống biển lội
Tôi đã lột dây buộc
Theo thói quen của tôi
Và ném thây xuống biển
Khi thức dậy buổi mai.
Tôi bỗng thấy từ sóng
Bọn cá mập từng đàn
Chúng thích thịt da đen
Tôi thành người nuôi chúng
Bọn cá mập theo tàu
Từ khi ta rời bến
Chúng đánh hơi thịt người
Chúng cũng sành ăn lắm.
Rất buồn cười khi nhìn
Chúng đớp những xác chết
Đứa ngoạm đầu, ngoạm chân
Rứt ra từng miếng thịt.
Ăn xong chúng nhép miệng
Vui vẻ bơi quanh thuyền
Nhìn tôi mắt thao láo
Như cảm ơn cho ăn”
Văn Cốc cắt lời bảo:
“Phải ngăn tai nạn kia
Làm sao cho bọn chúng
Từ đây bớt chết đi?”
Tên bác sĩ đáp ngay:
“Bọn đen chết tại chúng
Đã làm cho hôi hám
Không khí trong tàu này.
Nhiều đứa chết vì buồn
Chúng nó nhớ xứ sở
Có đôi chút trò vui
Là cứu lành bọn nó”
Văn Cốc vội nói to
“Bác sĩ ơi, tốt tốt
Ông là một triết gia
Hơn cả Arixtốt
…Âm nhạc và âm nhạc
Ta tổ chức cuộc vui
Thằng nào không chịu chơi
Ta sẽ quất vào đít”.
II
Từ trên vòm trời cao
Nghìn ngôi sao dòm xuống
Những mắt đầy ham muốn
Như những mắt đàn bà
Những ngôi sao nhìn xuống
Biển trong trẻo bao la
Ánh lân tin lấp lánh
Sóng kêu gọi thiết tha
Trên chiếc tàu buôn người
Buồn hạ không giương gió
Đèn sáng trên sàn tàu
Nổi điệu nhạc khiêu vũ
Người lái: violông
Người bếp thổi ống sáo
Một thuỷ thủ đánh trống
Bác sĩ thì thổi kèn
Tám trăm người da đen
Quay cuồng trong điệu nhảy
Cứ mỗi bước xoay tròn
Xích xiềng kêu muốn gãy
Đạp chân mạnh trên sàn
Ôm nhau hôn cháy khát
Những thân thể trần truồng.
Thỉnh thoảng buông tiếng nấc
Tên đứng ra tổ chức
Chính là tên giết người
Cầm chiếc roi cứ vụt
Bắt họ phải vui chơi
Tralala, đing-đông
Cuộc vui gọi dưới vực
Bọn cá mập nổi lên
Như chúng vừa thức giấc
Bọn chúng nhích lại gần
Hàng trăm con cá mập
Ngước mắt nhìn lên tàu
Đầy ngạc nhiên háo hức
Chờ đợi bữa ăn sáng
Chúng ngáp ngắn ngáp dài
Há cái mồm to tướng
Răng nhọn hoắt như cưa
Tralala đing-đông
Cuộc khiêu vũ không dứt
Bọn cá mập bực mình
Cắn đuôi nhau rậm rực
…Tralala, đing-đông
Cuộc khiêu vũ kéo mãi
Lão chủ hôn cột buồm
Chấp hai tay khấn vái;
Lạy Chúa xin tha chết
Cho cái bọn da đen
Chúng có đụng đến Chúa
Tại chúng quá ngu hèn
Cho chúng sống Chúa ơi!
Vì người Chúa đã chết
Không đủ ba trăm thằng
Thì đời tôi sạt nghiệp!”

Đồi và nhà Berg’ und Burgen schaun herunter

Berg’ und Burgen schaun herunter
In den spiegelhellen Rhein,
Und mein Schiffchen segelt munter,
Rings umglänzt von Sonnenschein.
Ruhig seh ich zu dem Spiele
Goldner Wellen, kraus bewegt;
Still erwachen die Gefühle,
Die ich tief im Busen hegt.
Freundlich grüßend und verheißend
Lockt hinab des Stromes Pracht;
Doch ich kenn ihn, oben gleißend,
Birgt sein Innres Tod und Nacht.
Oben Lust, im Busen Tücken,
Strom, du bist der Liebsten Bild!
Die kann auch so freundlich nicken,
Lächelt auch so fromm und mild.

Dịch nghĩa

Đồi và nhà soi bóng xuống
dưới dòng sô Ranh sáng như gương
và thuyền của tôi xuôi buồm nhanh chóng
xung quanh ánh mặt trời chiếu lung linh
Tôi nhìn những trò chơi của những con sóng vàng một cách bình tĩnh
chuyển động lăn tăn;
những cảm xúc bừng tỉnh nhẹ nhàng,
(những cảm xúc) mà tôi giữ sâu trong ngực
Chào hỏi vui vẻ và hứa hẹn
vẻ lộng lẫy của dòng sông dụ dỗ
nhưng mà tôi biết dòng sông ấy, phía trên chói sáng
che dấu bên trong là cái chết và đêm tối.
Bên trên (là)niềm tự hào, trong ngực (là) sự nham hiểm
Dòng sông ơi, ngươi là hình ảnh đẹp nhất!
Hình ảnh này có thể gật đầu vui vẻ,
cũng cười hiền lành và dịu dàng.

Hãy chờ xem 

Weil ich so ganz vorzüglich blitze,
Glaubt ihr, daß ich nicht donnern könnt!
Ihr irrt euch sehr, denn ich besitze
Gleichfalls fürs Donnern ein Talent.
Es wird sich grausenhaft bewähren,
Wenn einst erscheint der rechte Tag;
Dann sollt ihr meine Stimme hören,
Das Donnerwort, den Wetterschlag.
Gar manche Eiche wird zersplittern
An jenem Tag der wilde Sturm,
Gar mancher Palast wird erzittern
Und stürzen mancher Kirchenturm!

Dịch

Vì tôi có ánh chớp,
Anh tưởng không sấm gầm,
Anh đã nhầm, anh bạn!
Tôi có sấm gầm vang.
Rồi sẽ có một ngày
Chúng ta cùng chứng kiến,
Anh sẽ nghe tiếng tôi
Thét to như sét đánh
Và ngày đó bão giông
Sẽ làm cây bật rễ,
Sẽ làm đổ nhà thờ,
Các lâu đài hoàng đế.

Thư gửi mẹ An meine Mutter

I.
Ich bin’s gewohnt den Kopf recht hoch zu tragen,
Mein Sinn ist auch ein bischen starr und zähe;
Wenn selbst der König mir in’s Antlitz sähe,
Ich würde nicht die Augen niederschlagen.
Doch, liebe Mutter, offen will ich’s sagen:
Wie mächtig auch mein stolzer Muth sich blähe,
In deiner selig süßen, trauten Nähe
Ergreift mich oft ein demuthvolles Zagen.
Ist es dein Geist, der heimlich mich bezwinget,
Dein hoher Geist, der Alles kühn durchdringet,
Und blitzend sich zum Himmelslichte schwinget?
Quält mich Erinnerung, daß ich verübet
So manche That, die dir das Herz betrübet,
Das schöne Herz, das mich so sehr geliebet?
II.
Im tollen Wahn hatt’ ich dich einst verlassen,
Ich wollte gehn die ganze Welt zu Ende,
Und wollte sehn ob ich die Liebe fände,
Um liebevoll die Liebe zu umfassen.
Die Liebe suchte ich auf allen Gassen,
Vor jeder Thüre streckt’ ich aus die Hände,
Und bettelte um gringe Liebesspende, –
Doch lachend gab man mir nur kaltes Hassen.
Und immer irrte ich nach Liebe, immer
Nach Liebe, doch die Liebe fand ich nimmer,
Und kehrte um nach Hause, krank und trübe.
Doch da bist du entgegen mir gekommen,
Und ach! was da in deinem Aug’ geschwommen,
Das war die süße, langgesuchte Liebe.

Dịch

I.
Con thường sống ngẩng cao đầu mẹ ạ
Tính tình con hơi ngang bướng kiêu kỳ
Nếu có vị chúa nào nhìn con vào mắt
Con chẳng bao giờ cuối mặt trước uy nghi
Nhưng mẹ ơi, con xin thú thật
Trái tim con dù kiêu hãnh thế nào
Đứng trước mẹ dịu dàng chân chất
Con thấy mình bé nhỏ làm sao
Có phải tinh thần mẹ diệu kỳ soi thấu
Như bay lên vừng ánh sáng cao siêu
Hay bao nỗi buồn xưa nung nấu
Trái tim mẹ hiền đùm bọc đứa con yêu.
II.
Trong cơn mê, con từ mẹ ra đi
Con muốn đi tận cùng trời đất
Để tìm kiếm tình yêu đẹp nhất
Trong đôi cánh tay con sẽ ôm ghì
Con tìm tình yêu khắp nơi khắp nẻo
Con đập vào các cửa mỏi rời tay
Con đã van xin như một kẻ ăn mày
Nhưng chỉ nhận những cái nhìn lạnh lẽo
Tìm không thấy tình yêu con trở về bên mẹ
Tâm trí chán chê, thân thể rã rời
Con bỗng thấy một tình yêu chân thật
Trong đôi mắt dịu hiền của mẹ, mẹ ơi.

Tế Hanh là một thi sĩ mang danh được nhiều bạn đọc yêu mến và tìm kiếm. Những bài dịch của tác giả Heinrich Heine  đã mang tên tuổi của ông lên một tầm cao mới trong văn đàn được người đời ca tụng mạnh mẽ. Hãy đón xem và cảm nhận những thi phẩm xuất sắc đó của ông các bạn nhé!