Giống như những nhà thơ khác, Tú Mỡ ngoài đam mê sáng tác những trang thơ hiện thực châm biếm vang danh thì ông còn đam mê dịch những thi phẩm nước ngoài nổi tiếng trên thế giới. Qua đó ta thêm phần ngưỡng mộ sự tài năng của ông. Cùng nhau theo dõi ngay bây giờ nhé!

Anh nghiện rượu và chị vợ

Chacun a son défaut, où toujours il revient:
Honte ni peur n’y remédie.
Sur ce propos, d’un conte il me souvient:
Je ne dis rien que je n’appuie
De quelque exemple. Un suppôt de Bacchus
Altérait sa santé, son esprit et sa bourse.
Telles gens n’ont pas fait la moitié de leur course
Qu’ils sont au bout de leurs écus.
Un jour que celui-ci, plein du jus de la treille,
Avait laissé ses sens au fond d’une bouteille,
Sa femme l’enferma dans un certain tombeau.
Là, les vapeurs du vin nouveau
Cuvèrent à loisir. A son réveil il treuve
L’attirail de la mort à l’entour de son corps:
Un luminaire, un drap des morts.
Oh! dit-il, qu’est ceci? Ma femme est-elle veuve?
Là-dessus, son épouse, en habit d’Alecton,
Masquée et de sa voix contrefaisant le ton,
Vient au prétendu mort, approche de sa bière,
Lui présente un chaudeau propre pour Lucifer.
L’époux alors ne doute en aucune manière
Qu’il ne soit citoyen d’enfer.
Quelle personne es-tu? dit-il à ce fantôme.
La cellerière du royaume
De Satan, reprit-elle; et je porte à manger
A ceux qu’enclôt la tombe noire.
Le mari repart sans songer:
Tu ne leur portes point à boire?

Dịch

Chứng nào tật ấy trơ trơ
E gờm, xấu hổ có chừa được đâu
Nhân điều đó nhớ câu chuyện cũ
Đem ra làm ví dụ thấy ngay
Một anh đồ đệ làng say
Thần suy, xác nhược, sạch bay tiền rồi
Ấy lắm kẻ nửa đời nửa đoạn
Dẫu tiền nghìn bạc vạn cũng tong
Anh ta vừa nốc rượu xong
Đã vui tri giác tận cùng đáy chai
Vợ anh đặt nằm dài mồ giả
Để chàng say bốc hả hơi men
Khi anh tỉnh rượu nhìn xem
Quanh mình đồ táng nến đèn chi đây?
Tấm vải liệm, ô hay, quái gở!
“Để vợ mình góa bụa rồi chăng?”
Bấy giờ chị vợ hiện thân
Trên mình khoác áo nữ thần âm cung
Đeo mặt nạ, quỷ hung mạo giọng
Tiến lại anh chết sống mơ màng
Lù lù sát đến áo quan
Đưa tô cháo lú món ăn Dạ đài
Anh chàng chẳng còn hoài nghi nữa
Đích mình là âm phủ công dân
Nhìn ma mới hỏi tần ngần:
Ai là ai đó? là thần hay ma?
Chị vợ đáp: – Ta, bà Nội vụ
Chức quan gia trong phủ Quỷ vương
Ta đem cháo lú bữa thường
Cho người ở cõi suối vàng tối tăm
Anh chồng chẳng để tâm suy nghĩ
Hỏi luôn rằng: – Đây chỉ cho ăn
Thế còn khoản uống, nhịn chăng?

Bác chữa dép và ông chủ bạc

Un Savetier chantait du matin jusqu’au soir:
C’était merveilles de le voir,
Merveilles de l’ouïr; il faisait des passages,
Plus content qu’aucun des sept sages.
Son voisin au contraire, étant tout cousu d’or,
Chantait peu, dormait moins encor.
C’était un homme de finance.
Si sur le point du jour parfois il sommeillait,
Le Savetier alors en chantant l’éveillait,
Et le Financier se plaignait,
Que les soins de la Providence
N’eussent pas au marché fait vendre le dormir,
Comme le manger et le boire.
En son hôtel il fait venir
Le chanteur, et lui dit: Or çà, sire Grégoire,
Que gagnez-vous par an? – Par an? Ma foi, Monsieur,
Dit avec un ton de rieur,
Le gaillard Savetier, ce n’est point ma manière
De compter de la sorte; et je n’entasse guère
Un jour sur l’autre: il suffit qu’à la fin
J’attrape le bout de l’année:
Chaque jour amène son pain.
Eh bien que gagnez-vous, dites-moi, par journée?
Tantôt plus, tantôt moins: le mal est que toujours;
(Et sans cela nos gains seraient assez honnêtes,)
Le mal est que dans l’an s’entremêlent des jours
Qu’il faut chommer; on nous ruine en Fêtes.
L’une fait tort à l’autre; et Monsieur le Curé
De quelque nouveau Saint charge toujours son prône.
Le Financier riant de sa naïveté
Lui dit: Je vous veux mettre aujourd’hui sur le trône.
Prenez ces cent écus: gardez-les avec soin,
Pour vous en servir au besoin.
Le Savetier crut voir tout l’argent que la terre
Avait depuis plus de cent ans
Produit pour l’usage des gens.
Il retourne chez lui: dans sa cave il enserre
L’argent et sa joie à la fois.
Plus de chant; il perdit la voix
Du moment qu’il gagna ce qui cause nos peines.
Le sommeil quitta son logis,
Il eut pour hôtes les soucis,
Les soupçons, les alarmes vaines.
Tout le jour il avait l’oeil au guet; Et la nuit,
Si quelque chat faisait du bruit,
Le chat prenait l’argent: A la fin le pauvre homme
S’en courut chez celui qu’il ne réveillait plus!
Rendez-moi, lui dit-il, mes chansons et mon somme,
Et reprenez vos cent écus.

Dịch

Bác chữa dép sớm chiều ca hát
Thấy bác là đẹp mắt vui tai
Véo von trầm bổng hát hoài
Thất hiền hồ dễ đã ai sướng bằng?
Ông hàng xóm đeo vàng dắt bạc
Trái lại đời thua bác sướng rơn
Hát ít, ngủ lại ít hơn
Đời con người ấy chỉ toàn tiền nong
Sáng có buổi giấc mòng thiêm thiếp
Đã nghe anh chữa dép hát vang
Làm tan giấc điệp mơ màng
Phú ông bực dọc thở than oán trời
Sao ngoài chợ không ai bán ngủ
Như uống ăn, đầy đủ cho ta?
Mời chàng hay hát sang nhà
Phú ông mới hỏi: “Úi xà, bác Nhiêu
Mỗi năm kiếm bao nhiêu tiền nhỉ?”
Bác Nhiêu cười củ mỉ thưa qua:
“Mỗi năm? Xin nói thật thà
Tôi đâu tính vậy tới hòa trọn năm!
Kiếm đâu ra của ăn của để
Hôm nay còn tiếp kế hôm sau
Lần hồi rút cục chỉ cầu
Quí hồ sống nổi đến đầu sang năm
Mỗi ngày đủ cơm ăn là tốt”
Thế bao nhiêu phỏng một ngày công?
Khi hơn khi kém bất đồng
Chỉ hiềm một nỗi làm không được đều
Nếu không có điều gì trắc trở
Tiền kiếm ra cũng khớ xung xinh
Mỗi năm mắc míu linh tinh
Những ngày lễ lạt thôi đành ngồi suông
Lại hội hè nhiễu nhương tối kỵ
Người bày trò ta bị thiệt lây
Cái kia làm hại cái này
Và ông cha xứ cứ xoay xở hoài
Lắm thánh mới, lắm ngày giảng thuyết
Ngày lễ làm thua thiệt ngày công
Nghe người chất phác ngỏ lòng
Miệng cười nhăn nhở phú ông bảo rằng:
“Nay lão muốn bác tăng phúc lộc
Rước bác lên bệ ngọc ngai rồng
Tiền đây cầm lấy trăm đồng
Đem về cất kỹ, cần dùng tiêu pha”
Bác chữa dép tưởng là trông thấy
Tất cả tiền trăm mấy năm nay
Trần gian đã đúc ra đây
Để cho thiên hạ chia tay tiêu dùng
Bác về nhà dấu trong hầm kín
Cất túi tiền, cất biến cả vui
Không hát nữa, mất giọng rồi
Được luôn nguồn khổ cho đời chúng ta
Giấc ngủ kỹ bỏ nhà đi biệt
Mối lo âu bám riết không rời
Nghi ngờ, hoảng hốt, bồi hồi
Ngày thời mắt trố, đêm thời tai căng
Mèo sịch động, tưởng rằng mèo cuỗm…
Cuối cùng con người khốn đáng thương
Chạy ngay tìm lão giàu sang
Mà bác đã hết làm tan giấc nồng
Rằng: “Thôi thôi, xin ông chủ bạc
Trả lại tôi giọng hát, giấc say
Tiền trăm xin trả ông đây”…

Cái bị La besace

Jupiter dit un jour: “Que tout ce qui respire
S’en vienne comparaître aux pieds de ma grandeur:
Si dans son composé quelqu’un trouve à redire,
Il peut le déclarer sans peur;
Je mettrai remède à la chose.
Venez, Singe; parlez le premier, et pour cause.
Voyez ces animaux, faites comparaison
De leurs beautés avec les vôtres.
Etes-vous satisfait? – Moi? dit-il, pourquoi non?
N’ai-je pas quatre pieds aussi bien que les autres?
Mon portrait jusqu’ici ne m’a rien reproché;
Mais pour mon frère l’Ours, on ne l’a qu’ébauché:
Jamais, s’il me veut croire, il ne se fera peindre.”
L’Ours venant là-dessus, on crut qu’il s’allait plaindre.
Tant s’en faut: de sa forme il se loua très fort
Glosa sur l’Eléphant, dit qu’on pourrait encor
Ajouter à sa queue, ôter à ses oreilles;
Que c’était une masse informe et sans beauté.
L’Eléphant étant écouté,
Tout sage qu’il était, dit des choses pareilles.
Il jugea qu’à son appétit
Dame Baleine était trop grosse.
Dame Fourmi trouva le Ciron trop petit,
Se croyant, pour elle, un colosse.
Jupin les renvoya s’étant censurés tous,
Du reste, contents d’eux ; mais parmi les plus fous
Notre espèce excella ; car tout ce que nous sommes,
Lynx envers nos pareils, et Taupes envers nous,
Nous nous pardonnons tout, et rien aux autres hommes:
On se voit d’un autre oeil qu’on ne voit son prochain.
Le Fabricateur souverain
Nous créa Besaciers tous de même manière,
Tant ceux du temps passé que du temps d’aujourd’hui:
Il fit pour nos défauts la poche de derrière,
Et celle de devant pour les défauts d’autrui.

Dịch

Thiên vương một buổi phán truyền:
“Muôn loài sinh vật sống trên hoàn cầu
Dưới bệ ngọc hãy đến chầu
Hình hài có lệch cứ tâu Trẫm tường
Đừng sợ hãi, nói đàng hoàng
Lệch đâu Trẫm sẽ lo toan sửa liền
Khỉ kia, vì lẽ hiển nhiên
Cho vào tâu báo trước tiên sự tình
Trông vạn vật sánh với mình
So bề xấu đẹp tường trình. Thoả chăng?”
Khỉ ta quỳ gối tâu rằng:
“Muôn tâu thánh đế, ngẫm thằng Khỉ tôi
Có chi mà chẳng thoả đời
Cũng bốn chân, há kém loài khác sao!
Chân dung ngắm chẳng thẹn nào
Kìa xem chú Gấu, ối chao, dị hình!
Theo tôi chú chẳng ưng tình
Để tay hoạ sĩ vẽ mình cho đang!”
Gấu ra, tưởng Gấu phàn nàn
Té ra Gấu cũng nỏm nang khoe mình
Lại chê Voi mới xấu hình
Tai nên xén bớt, đuôi đành nối thêm
Thực là một đống thịt lèn
Có chi là đẹp, là nền, là xinh?
Voi dù có tiếng thông minh
Cũng lời lẽ giống hai anh vừa rồi
Tâu rằng: “Cứ ý riêng tôi
Cá Voi bà nọ, ối trời! quá to”
Kiến Kềnh tự đắc khổng lồ
Coi khinh Bọ Mạt là đồ tí teo
Tự phán xong, tan buổi chầu
Ra về, các giống xem chiều hả hê
Người so với các vật kia
Chủ quan ngu dại có khi gấp mười
Mắt tinh xoi mói xấu người
Xấu mình, mắt hoá mù rồi thấy đâu!
Tật mình xí xoá kể đâu
Tật người bới móc ra đầu ra đuôi
Nhìn mình bằng một con ngươi
Giương con mắt khác thấy người kém ta
Hoá Công cũng khéo chua ngoa
Sinh người đeo bị, chẳng qua một nòi
Xưa nay, âu cũng thế thôi
Bị may hai túi rạch ròi khác nhau
Lỗi mình ta nhét túi sau
Lỗi người túi trước, lầm đâu được mà!

Cáo và cò

Compère le Renard se mit un jour en frais,
et retint à dîner commère la Cigogne.
Le régal fût petit et sans beaucoup d’apprêts:
Le galant pour toute besogne,
Avait un brouet clair ; il vivait chichement.
Ce brouet fut par lui servi sur une assiette:
La Cigogne au long bec n’en put attraper miette;
Et le drôle eut lapé le tout en un moment.
Pour se venger de cette tromperie,
A quelque temps de là, la Cigogne le prie.
“Volontiers, lui dit-il ; car avec mes amis
Je ne fais point cérémonie.”
A l’heure dite, il courut au logis
De la Cigogne son hôtesse;
Loua très fort la politesse;
Trouva le dîner cuit à point:
Bon appétit surtout; Renards n’en manquent point.
Il se réjouissait à l’odeur de la viande
Mise en menus morceaux, et qu’il croyait friande.
On servit, pour l’embarrasser,
En un vase à long col et d’étroite embouchure.
Le bec de la Cigogne y pouvait bien passer;
Mais le museau du sire était d’autre mesure.
Il lui fallut à jeun retourner au logis,
Honteux comme un Renard qu’une Poule aurait pris,
Serrant la queue, et portant bas l’oreille.
Trompeurs, c’est pour vous que j’écris:
Attendez-vous à la pareille.

Dịch

Anh chàng Cáo một hôm rộng rãi
Giữ chị Cò ở lại thết cơm
Tiệc tùng cũng nhỏ ít rườm
(Cáo ta vẫn sống như phường kiệt keo)
Cò chỉ có lèo tèo cháo loãng
Lại múc ra đểnh đoảng đĩa vơi
Mỏ dài Cò đớp không trôi
Cáo ta tờm tợp một hồi hết veo
Trả thù vố thằng keo chơi xỏ
Cách ít lâu Cò mở tiệc mời
Cáo rằng: “Vâng, tờ nhận lời
Chỗ bè bạn cả, dám chơi khách tình”
Đúng giờ hẹn Cáo nhanh nhảu tới
Khen chủ Cò, ca ngợi râm ran
Rằng Cò lịch thiệp vô vàn
Cỗ vừa chín tới, lại đang đói mèm
Cáo vốn tính hay thèm háu đói
Mùi thịt băm điếc mũi thơm lừng
Khiến cho bụng Cáo vui mừng
Món này, phải biết, vô chừng ngon ơ
Không ngờ bị chị Cò chơi xỏ
Đựng vào bình miệng nhỏ cổ dài
Mỏ Cò thò lọt như chơi
To phè mõm Cáo, ôi thôi quá bề!
Đành bóp bụng trở về buồn bực
Tiu nghỉu như cáo mắc mưu gà
Tẽn tò đuôi quắp, tai sà

Chó sói trá hình chăn chiên

Un Loup qui commençait d’avoir petite part
Aux Brebis de son voisinage,
Crut qu’il fallait s’aider de la peau du Renard
Et faire un nouveau personnage.
Il s’habille en Berger, endosse un hoqueton,
Fait sa houlette d’un bâton,
Sans oublier la Cornemuse.
Pour pousser jusqu’au bout la ruse,
Il aurait volontiers écrit sur son chapeau:
C’est moi qui suis Guillot, berger de ce troupeau.
Sa personne étant ainsi faite
Et ses pieds de devant posés sur sa houlette,
Guillot le sycophante approche doucement.
Guillot le vrai Guillot étendu sur l’herbette,
Dormait alors profondément.
Son chien dormait aussi, comme aussi sa musette.
La plupart des Brebis dormaient pareillement.
L’hypocrite les laissa faire,
Et pour pouvoir mener vers son fort les Brebis
Il voulut ajouter la parole aux habits,
Chose qu’il croyait nécessaire.
Mais cela gâta son affaire,
Il ne put du Pasteur contrefaire la voix.
Le ton dont il parla fit retentir les bois,
Et découvrit tout le mystère.
Chacun se réveille à ce son,
Les Brebis, le Chien, le Garçon.
Le pauvre Loup, dans cet esclandre,
Empêché par son hoqueton,
Ne put ni fuir ni se défendre.
Toujours par quelque endroit fourbes se laissent prendre.
Quiconque est Loup agisse en Loup;
C’est le plus certain de beaucoup.

Dịch

Sói chớm thấy miếng mồi sút kém
Nhằm chiên quanh vùng khó kiếm ăn to
Nghĩ phải xoay mưu cáo, giở trò
Cải trang để biến thành nhân vật khác
Nó mặc áo mục đồng, choàng thêm áo khoác
Đẵn gậy làm mục trượng chăn chiên
Lại không quên sắm một cái kèn
Giá có thể, nó đã đẩy mưu lên tuyệt diệu
Viết trên mũ rõ ràng danh hiệu
“Chính ta đây là Mục tử chăn chiên”
Cải trang xong bộ dạng như trên
Hai chân trước tì lên gậy lụi
Mục tử giả từ từ tiến tới
Mục tử chính tông trên bãi cỏ nằm soài
Người ngủ say, chó cũng nằm dài
Kèn bao da cũng im hơi nằm bẹp
Hầu hết chiên cũng ngủ mê ngủ mệt
Thằng gian ngoan cứ mặc, để yên
Và muốn dễ lùa về sào huyệt cả đàn chiên
Nó mượn ngôn ngữ đi kèm liền y phục
Tưởng cần làm thế mới giống như người thực
Có ngờ đâu hỏng việc tỏng tòng tong
Không làm sao mạo giọng mục đồng
Nó vừa ông ổng, cả khu rừng vang giật
Thế là lộ toạc mưu mô bí mật
Tất cả choàng lên vì tiếng rú inh tai
Nào chiên, nào chó, nào người
Con sói khốn trong cơn lộn xộn
Vướng áo choàng, không thể nào chạy trốn
Cũng không biết còn chống cự vào đâu
Ở đời những kẻ hiểm sâu
Xưa nay vẫn thế, giấu đầu hở đuôi
Sói thà ra mặt sói thôi
Ấy là đạo chắc , việc trôi hơn nhiều

Chuột tỉnh và chuột đồng

Autrefois le Rat de ville
Invita le Rat des champs,
D’une façon fort civile,
A des reliefs d’Ortolans.
Sur un Tapis de Turquie
Le couvert se trouva mis.
Je laisse à penser la vie
Que firent ces deux amis.
Le régal fut fort honnête,
Rien ne manquait au festin;
Mais quelqu’un troubla la fête
Pendant qu’ils étaient en train.
A la porte de la salle
Ils entendirent du bruit:
Le Rat de ville détale;
Son camarade le suit.
Le bruit cesse, on se retire:
Rats en campagne aussitôt;
Et le citadin de dire:
Achevons tout notre rôt.
C’est assez, dit le rustique;
Demain vous viendrez chez moi:
Ce n’est pas que je me pique
De tous vos festins de Roi;
Mais rien ne vient m’interrompre:
Je mange tout à loisir.
Adieu donc; fi du plaisir
Que la crainte peut corrompre.

Dịch

Ngày xưa anh Chuột tỉnh
Mời chú bạn Chuột đồng
Một cách rất lịch thiệp
Dự tiệc thừa nem công
Trên khăn bàn thổ cẩm
Bát đĩa bày xênh xang
Tiệc tùng đôi bạn ấy
Phè phỡn lọ phải bàn
Chè chén tươm ra phết
Cao lương chẳng thiếu gì
Xịch có ai phá đám
Đôi bạn đang tì tì
Ngoài cửa buồng lạch cạch
Nghe tiếng động hoảng hồn
Chuột tỉnh mau chân tếch
Chuột bạn theo sau chuồn
Hết động người đi khỏi
Chuột lóc nhóc ra ngay
Anh kẻ chợ mời bạn:
“Chén nốt món thịt quay”
Chú nhà quê: “Xin đủ!
Mai bác đến chơi nhà
Tôi chẳng dám bày vẽ
Thết bạn tiệc hoàng gia
Nhưng không bị cụt hứng
Tôi ăn uống thảnh thơi
Chào bác, cứ nơm nớp
Còn cóc gì thú vui!”

Trên đây, uct.edu.vn đã dành tặng đến quý độc giả những tuyệt phẩm dịch ấn tượng của nhà thơ Tú Mỡ. Qua đó ta thêm phần yêu và ngưỡng mộ sự tài hoa của ông. Mời các bạn đón xem phần 2 với những trang thơ đầy đặc sắc hơn nhé! Thân Ái!

 

Tagged: