Tú Mỡ (1900-1976) tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900 tại phố Hàng Hòm, Hà Nội. Ông thực sự nổi tiếng từ năm 1932, khi giữ mục “Dòng Nước ngược” cho báo Phong Hoá. Ông sở hữu cho mình những trang thơ vô cùng đặc sắc và ý nghĩa được nhiều bạn đọc yêu thích.
…Và ông già trẻ
Ngược đời có lắm cụ già nua
Nhí nhảnh làm ra bộ tuổi thơ
Đầu tóc nhuộm đen hòng trẻ lại
Râu ria cạo trụi rõ…trai lơ
Đua chơi ra phết ông còn khoẻ
Làm việc lơ mơ, cụ kiếu già
Thấy gái y như mèo thấy mỡ
Năm thê bảy thiếp cũng không vừa
“Sư cậu” đi hát ả đào
Có hai “sư cậu” chùa Bà,
Ăn no rửng mỡ la cà rong chơi.
Tịnh chay mãi cũng chán đời,
Nên sư phá giới nếm mùi phong lưu.
Lần mò đến xóm hồng lâu,
Ở Ngã Tư Sở, cô đầu tìm chơi.
Kinh ân ái, tượng mày ngài,
Sư đang tụng niệm lả lơi với tình.
Ngón chầu tom chát đang xinh,
Bỗng thầy chánh tổng thình lình tạt qua.
Nhác trông bóng sãi kề hoa,
Bạch sư hổ lửa: “Đâu mà đến đây?”
Sư rằng: “Chơi gió, chơi mây,
Nhỡ đường vào tạm chốn này trú chân,
Rượu chay nhấp chén tẩy trần,
Hát chay di dưỡng tinh thần miên man.”
Thầy chánh đe giải lên quan,
Lưỡng sư xanh mắt, kêu van, nằn nì.
Chắp tay, rồi lạy, rồi quỳ,
Sì sà sì sụp như kỳ dâng sao.
Rằng: “Nay trong cuộc tiêu dao,
Ma vương đưa lối lạc vào xóm hoa.
Lần này chót dại xin tha,
A di đà phật! Đến già xin tu!”
Bé Nguyệt làm thơ
Trước cửa nhà
Có vườn hoa
Vườn tuy nhỏ
Cây sùm soà.
Ngày xuân đẹp trời
Nắng ấm sáng ngời,
Nguyệt cùng em bé
Ra vườn vui chơi.
Nắm tay em đi quanh
Bồn hoa nở rung rinh.
Bé Nguyệt véo von hát
Rồi tự đặt linh tinh:
“Cóc cụ trong hang, cóc nhảy ra,
Sển sền sên múa, vác theo nhà,
Dưới lỗ, chú dế mèn hát xẩm,
Trên cành, vành khuyên ríu rít ca…”
Ông nhìn các cháu phởn phơ,
Ông cười: “Cái Nguyệt làm thơ khá vần”
Cháu ông cao hứng lên dần,
Một câu sáu tám bất thần nảy ra:
“Nhà em có một vườn hoa,
Bướm vào bướm đậu, bướm ra bướm cười”
Bướm cười! Ngộ nghĩnh quá thôi!
Một vần thơ mới tuyệt vời thiếu nhi.
Bốn cái mong của thầy phán
Làm nghề thầy ký với thầy thông
Sống ở trên đời có bốn mong:
Mong tháng chóng qua, tiền chóng lĩnh
Mong giờ mau hết, việc mau xong
Mề đay mong được dăm mười chiếc
Lương bổng mong tăng sáu bẩy đồng
Hãy tạm thời nay mong thế thế
Còn bao mong nữa xếp bên lòng
Các ông nghị đi xem đồn điền di dân
Người ta mời các nghị viên,
Lên Yên Bái xem đồn điền di dân.
Có quan Công sứ đại thần,
Mới về nhà “xẹc” ân cần thết cơm.
Cần thường đặc biệt An Nam
Cỗ tuy lòng dấm, món làm cũng thơm.
Nào là lòng lợn mắm tôm,
Nào là bò tái chấm tương điểm gừng.
Thịt dê nướng chả thơm lừng,
Tiết dê pha rượu vô cùng bổ dương.
Vịt hầm nhừ biến cả xương,
Thịt nhồi mộc nhĩ nấm hương ngon lành.
Cỗ bàn đủ cả tam sinh,
Rượu ngon nhắm tốt thoả linh các ngài.
Bữa nay được dịp trổ tài,
Với thời khí vụng ăn thời rất hay.
Của ngon thức thức sẵn bày,
Bát này đĩa nọ hết bay rầm rầm!
Tiệc tan khi đã triệt mâm,
Mặt to tai lớn đỏ hăm hồng hào.
Các ngài chếnh choáng lao đao,
Ra ga bước thấp bước cao lên tàu.
Bồi bàn một lũ theo hầu,
Nước chanh, nước đá, chè Tầu, rượu bia.
Bây giờ men ngấm hao ghê,
Sẵn đồ giã rượu hả hê dạ dày.
Kẻ hầu tíu tít luôn tay,
Các “ông dân” cũng ngớt say tỉnh dần.
Đi xem công cuộc di dân,
Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn to.
Khi về nhớ… bữa say no,
Ghi lòng tạc dạ tái bò chả dê.
Cái búp tăng gia
Bé ra đời trong kháng chiến,
Mười ba tháng chập chững đi
Môi nụ hồng xinh chúm chím,
Mắt nâu một mí, dài mi.
Tay tròn như củ cải múp,
Ngón thon như búp măng non.
Ông đặt tên là cái Búp,
Búp bê chạy lon ton.
Búp đã bắt đầu cai sữa
Mẹ sắp chỉnh huấn phương xa,
Bồng bế Búp về tạm ở
Hú hí với ông cùng bà.
Trên đồi thấy ông hì hụi
Ngày ngày vỡ đất tăng gia
Ngô, khoai, sắn, rau, dứa, chuối,
Thêm thặt thức ăn trong nhà.
Búp cũng lăng xăng bắt chước,
Sơm sớm theo ông ra đồi
Tay nâng không nổi cái cuốc:
“Cháu cũng tăng gia, ông ơi!”
“Búp tăng gia gì?” – ông hỏi
Búp ta lém lỉnh trả lời
“Ông ạ, cháu tăng gia chuối
Cháu lại tăng cả gia… xôi”
Ông ngắm cháu ngoan loắt choắt,
Phủi tay, hôn cháu, cả cười:
“Ông chịu con nhà láu thật!
Tăng gia toàn thứ thích xơi”
Hôm sau, ông ra lò chợ
Đánh một cái cuốc con con
Cho “cô nông dân” bụ bẫm
Sáng sáng theo ông làm vườn…
Cảnh sướng về hưu
Cái cảnh về hưu sướng sướng rơn!
Làm thơ mệt óc, lại làm vườn.
Ngắm đàn cháu bè đùa như nguỵ,
Tiếp bạn làm thơ chuyện “chúa ôn”.
Thích khẩu, mong ơn bà vợ đảm,
Đấm lưng đếch thuốc chị hầu non.
Sáng banh, tập võ lên gân dẻo,
Tối sẩm, đo giường đánh giấc ngon.
Ít họp ít hành xương đỡ mỏi.
Năng mài năng rũa bút chưa cùn.
Trồng cây đã đến ngày ăn quả,
Uống nước dù sao cũng nhớ nguồn.
Ơn nước ơn dân, còn sức khoẻ,
Vẫn thơ vẫn phú, thuận dòng tuôn.
Anh em vào Láng thân yêu bảo:
“Bác Tú nhà ta cảnh rất tơn!”
Câu chuyện “Tướng đi ỉa”
Tết ta chơi tam cúc,
Lỡ khi tướng phải chui,
Ta thường nói đùa vui:
“A ha! Tướng đi… ỉa!”
Nhưng ai có rõ nghĩa
Câu ấy ở đâu ra?
Đây xin kể nôm na
Điển tích này cũng mới:
Tháng mười một năm ngoái,
Tướng Alếchxăngđờri
Nướng tét ở biên thuỳ
Hai tiểu đoàn chủ lực.
Thực dân bèn cách chức,
Lôi anh khác lên thay.
Đờlatua tướng này
Nghe đồn tay cũng đảm
Cầm quân vừa một tháng,
Quan tướng đã vô tình
Lại đem cúng “Việt minh”
Hai tiểu đoàn thiện chiến!
Thực dân đau chết điếng,
Chỉ những thua là thua!
Cách cổ Đờlatua,
Cử Sài lang kế chức.
Tướng bị chui hậm hực…
Hang tin A.F.P.
Chữa khéo: “tướng phải về
Vì ngài mắc kiết lị”
Thực là câu chí lý!
Người Việt Nam chúng ta
Cũng bảo quả không ngoa:
“Tướng thua tướng đi… ỉa”
Ôi mớ đời mai mỉa!
Đánh chác bốn năm nay,
Bao tướng ta đổi thay,
Tình hình vẫn bi đát.
Nay ông tướng Đờlát
Họ Đờ Tátxinhi
Mới lên bài đã bi:
Đông Bắc và Vĩnh Phúc
Bảy tiểu đoàn ngã gục.
Canh bạc gặp hồi đen,
Cứ mất kết liền liền,
Rồi cũng đến kiết lị
Cắp đít về Tây… ị!
Cháu là thanh niên
Thằng Sơn lên bảy tuổi
Bé nhất nhà chon nên
Ông yêu ông gọi nựng
Là thằng Ẻm thằng Em
Tình nó cũng ngoan ngoãn
Nhưng láu lỉnh ngang nhiên
Nhiều “lý do lý trấu”
Để bênh vực lẽ riêng.
Trời nổi gió đông bắc
Ông kêu gọi thằng Em:
“Mau lấy áo len mặc
Kẻo cảm lạnh ho hen”
Thằng Em liến thoắng đáp:
“Cháu đang thấy nóng điên”
“Nhưng ông thấy trời lạnh
Bảo cháu phải nghe lời”
“Ông già ông sợ lạnh
Còn cháu là thanh niên”
Ồ thanh niên lên bảy
Thằng bé nói dị kỳ
Ý chưng muốn nhảy vọt
Qua giai đoạn thiếu nhi?
“Tốt lắm! Nhưng ông hỏi:
Đã ba sẵn sàng chưa?”
“Chưa! Cháu chưa đến tuổi
Là thanh niên nhận vờ”
“Bây giờ nghe ông bảo
Thanh niên hãy xung phong
Chống lạnh mặc thêm áo”
“Sẵn sàng vâng lời ông!”
Còn say
“Nhắn bác Tản Đà”
Đã lâu, bác mới ra đời,
Tưởng rằng gột óc theo thời duy tân.
Nào ngờ bác vẫn say lăn,
Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.
Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,
Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,
Người đời hoạt động xôn xao,
Bác vờ triết lý thanh cao: bác lười!
Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.
Bác buồn trời gió, rồi trời lại mưa!
Giải buồn chén tít say sưa,
Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!
Rượu vào, rồng rổng thơ tuôn,
Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,
Bác rằng: khách tục bon chen,
Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.
Đời rằng: bác dở, bác ương,
Giả danh ẩn dật là phường bỏ đi.
Bác rằng: chữ thọ quí chi.
Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?
Đời rằng: thuận với lẽ trời,
Sống mà gánh vác việc đời mới hay.
Còn như sống để mà… say.
Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?
Rung đùi, rượu nốc tì tì,
Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!
Dạy búp bê
Đặt con búp bê nhựa
Đứng quay mặt vào tường
Nguyệt làm bộ nghiêm trang
Lên cái giọng con cớn
Mắng rằng: “Con gái lớn
Đã lên tám tuổi rồi
Mẹ dạy chẳng nghe lời
Dạo này cô hư quá
Mẹ gọi cô không dạ
Mẹ bảo cô mần thinh
Cái mặt rắn như sành
Úi chà đanh đá khiếp!
Mỗi ngày có hai vệc:
Bữa cơm xong quét nhà
Và cứ sáng ngày ra
Cọ rửa bộ ấm chén
Thế mà cô lười biếng
Cứ trốn như chãch thôi
Cô cứ để cho tôi
Ngày ngày phải làm hộ
Bảo cô đã rát cổ
Như nước đổ lá khoai
Có con gái nhà ai
Lại hư thân mất nết?
Đáng lẽ tôi phải đét
Cho cô trận đòn đau
Nhưng cô đã bẹp đầu
Mà lại còn sứt mũi
Vì mấy lần ngã chúi
Cho nên tôi lại thương
Chỉ bắt cô đứng tường
Để thi hành kỷ luật”
Nhìn cháu nghiêm nét mặt
Ông không nhịn được cười
Cháu học đâu những lời
Nghiêm chỉnh pha hài hước
Mà đem ra bắt chước
Để dạy cái búp bê?
Nhưng được cái không chê
Là từ ngày hôm đó
Nguyệt ta rất là nhớ
Rựa ấm chén, quét nhà
Điều gì dạy người ta
Chính mình phải làm trước!
Gây quan
Mỗi năm nhà nước mở khoa thi
Để kén trong trung bắc lưỡng kỳ
Lấy mặt sỏi sành ra giúp việc
Bổ làm tập sự ngạch quan chi
Mỗi năm các cậu lớp tân khoa
Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa
Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng
Cũng là lừng lẫy khắp gần xa
Quảng cáo công không, các nhật trình
Đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,
Làm như các cậu “quan non” ấy
Là những kỳ đồng mới tái sinh
Trong làng trưởng giả những cô nào
Sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào
Mấp máy hòng lên bà lớn tắt
Mơ màng của dẫn lại tay trao
Cụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ran
Xoa tay hỉ hả cái gan vàng
Mừng cho nước Việt còn cơ khá
Vì chẳng bao giờ tiệt giống quan
Ghét Tết
(Thơ yết hậu)
Thiên hạ sao ưa tết?
Hẳn vì mặc áo đẹp
Tớ đây bảo Tết phiền
Ghét!
Tiêu pha thật tốn tiền
Chè chén cứ liên miên
Hết Tết đâm lo sợ
Điên!
Mồng một đi mừng tuổi
Chúc nhau nghe inh ỏi
Toàn câu sáo rác tai
Thôi!
Mừng tuổi đèo phong bao
Năm xu lại một hào
Ai sinh cái lệ đó?
Hao!
Kiết xác như vờ rồi
Còn ngông đốt pháo mãi.
Pháo kêu: Tiền hỡi tiền
Dại!
Hai chiến công oanh liệt của giặc Pháp
Líp líp! Lơ lơ
Ai nói vu vơ
Rằng Tây nhút nhát?
Tây chiến rất bạt
Tây đấu rất hùng,
Ra trận lập công
Cực kỳ oanh liệt.
Chuyện đây có thiệt,
Kể lại nghe chơi,
Ta phải khiếp người
Rằng Tây can đảm!
Hăm hai tháng tám,
Có một đội binh
Phía nam Hà thành
Đang đêm hốt hoảng,
Thấy loà đốm sáng
Trong tối rập rình,
Ngỡ tưởng Việt Minh,
Liền xông ra bắn.
Đùng! Đoành! Tán loạn
Nửa tiếng đồng hồ,
Mà phía quân thù
Không ai bắn trả.
Lấy làm quái lạ
Mấy chú trấn tâm.
Ô! Bé cái nhầm!
Bắn đàn… đom đóm!
Liền ra thắc thỏm
Báo cáo cấp trên.
Bị tẽn tèn ten,
Hầm hầm ông sếp
Tức xầu bọt mép
Hạ lệnh: “Thôi, thôi!
Ngửng bắn rút lui!”
Rất là trật tự.
Trở về buồng ngủ
Quân lính bồi hồi
Không biết nên cười
Hay là nên tủi…
Sớm mai thầy đội,
Chưa ngớt bực mình,
Quyết định dẫn binh
Quét càn làng xóm.
Trả thù đom đóm,
Châm lửa thiêu nhà,
Tây đốt miệng la
Rất là bạo dạn.
Làm xong thủ đoạn,
Hùng hổ kéo về
Đi khỏi luỹ tre
Chưa đầy trăm thước,
Bỗng nghe: lốp bốp!
Tặc tặc nổi ran
Bọn lính kinh hoàng:
“Việt Minh! Du kích!”
Cả đoàn huỳnh huỵch
Hạ thổ thực mau
Thầy đội cúi đầu,
Mũi hôn đất ruộng,
Hô cuồng hô cuống
“Bắn! Bắn! Bắn đi!”
Theo lệnh chỉ huy
Toàn quân vùi đất,
Chúi đầu nhắm mắt,
Chĩa súng bấm cò,
Ngót tiếng đồng hồ
Bắn về làng háy
Bắn quàng bắn quấy
Đã tốn đạn thay!
May khéo là may,
Việt gian bỗng đến
Giải nguy cứu biến
Cho đội hùng binh,
Xem xét tình hình
Việt gian cười rũ,
Bảo rằng tiếng nổ
Trong xóm cháy kia
Do tại mấu tre,
Lửa thiêu nứt toạc
Nổ ròn “tặc tặc”
Như đạn liên thanh
Không phải Việt Minh
Bắn ngầm đột kích
Nghe lời giải thích,
Toàn đội tuần binh
Mới rõ sự tình,
Cụp tai bò dậy,
Lấm như trâu vấy
Chán ngàn bẽ bàng,
Dời chốn “sa tràng”
Trở về dinh trại.
Hôm sau Ngày mới
Cùng báo Lăngtăng
Đã có bài đăng
Mục tin chiến sự
Rằng: Quân cảm tử
Du kích Việt Minh
Hôm qua thình lình
Đành đồn quân nọ.
Bắn nhau rầm rộ,
Địch bị đánh lui,
Thiệt hại nặng dùi
Thế là hết chuyện.
Hát sẩm
Anh thì hào, anh thì hào
Chúng anh xưa cũng mặt anh thì hào
Cũng phường tai mắt, anh nào có chịu kém ai!
Cung cách phong lưu, anh cũng đủ mùi đời
Chỉ còn thiếu nỗi, lên trời trọc tiên
Kể từ ngày thế sự đảo điên
Làm cho anh dơ cả mắt, hoá cho nên anh phải hoá mù
Ngước cái con ngươi, anh chỉ thấy cái bóng lù lù…
Cuộc đời xoay chuyển, anh vẫn ù ù, minh minh
Người ta thời tiến bộ cạnh tranh
Mà anh đây chẳng biết ánh sáng văn minh nó ra thế nào
Số phận nhá nhem, song le anh vẫn tự hào
Nợ đời lo trả, há nào thua ai!
Nghiệp sẩm soan thế mà có ích cho đời
Tay đàn, miệng hát, anh giúp người thêm vui
Anh thẹn cho phường con mắt chẳng đui
Úa sương nặng thịt, chỉ ngồi dồi ăn dưng
Anh lại thương cho phường con mắt tráo trưng
Thấy của đời, than ôi! tối mắt [?] lăn lưng vơ quàng
Chưng anh đây danh lợi chẳng màng
Suốt đời ca hát, sường tràn hơn tiên
Có cóc ra gì cái thời buổi bạc đen
Anh chẳng thèm mở mắt để bon chen vì tiền
Được cái thảnh thơi, quan bất nhiễu, dân bất phiền…
Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ hay và ấn tượng nhất của nhà thơ Tú Mỡ. Ông là một cây bút hiện thực đầy sinh động đi sâu vào tâm hồn người đọc. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày không xa! Thân Ái!