Tài dùng khẩu ngữ dân gian của Tú Mỡ rất điêu luyện. Ông chửi bọn thống trị bất tài vô hạnh nhưng chúng không làm gì được ông chính là do sắc thái từ ngữ của ông. Bởi vậy cho nên những trang thơ của ông vô cùng thú vị và thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ độc giả. Hãy cùng nhau cảm nhận nhé!
Tam khí de Tassigny
Nhớ xưa đời Tam Quốc
Chuyện tam khí Chu Du:
Đô đốc bên Đông Ngô
Bị Khổng Minh chọc tức,
Ba lần quá uất ức
Đến nỗi hộc máu tươi,
Lúc chết còn kêu trời:
“Sinh Du hà sinh Lượng!”
Uổng một đời danh tướng
Kể cũng đáng buồn thay
Chuyện kháng chiến ngày nay:
Ta đánh thực dân Pháp.
Tướng giặc tên De Lattre
Họ de Tassigny
Vừa chết, bệnh não gì?
Chẳng qua vì ức đó!
Trận Ninh Bình dạo nọ,
Có một mống con trai
Đã đóng lon quan hai
Bị quân ta khử mất,
Thế là một lần uất.
Rồi quan tướng trổ tài
Lập chiến lược “vòng đai”
Tưởng là ghê gớm lắm!
Té ra “vòng đai trắng”
Lại hoá “vòng đai hồng”
Quân ta đánh tứ tung,
Vòng đai đứt bùng bục
Thế là hai bận ức.
Sau đến trận Hoà Bình,
Quan tướng keo tinh binh
Chiếm đóng ngay thị xã.
Tưởng chiến công rực rỡ
Nào ngờ bị bao vây
Ròng rã ba tháng nay,
Sống dở và chết dở.
Quân vào cạm mất gở
Tướng lại chuồn về Tây
Càng nghĩ lại càng gay
Thế là ba bận ức.
Tức cha chả là tức!
Nghĩ nát ruột thối gan
Ốm rồi chết. Đời tàn!
Tiêu danh tiêu sự nghiệp.
Chẳng hay trước khi chết
Tướng có kêu sầu bi:
“Trời sinh Tassigny
Sao sinh Võ Nguyên Giáp!”
Tản Đà cốc tử
(Gửi bác Hiếu, Tản Đà)
Nghe đồn bác Hiếu Tản Đà
Mở hàng lý số tỉnh Hà nay mai
Chừng bác thấy lắm ngài “Lốc Cốc”
Chỉ chuyên môn nói dóc ăn tiền
Tán hươu tán vượn huyên thiên
Nói thánh nói tướng như tiên như thần
Nghề bẻm mép kiếm ăn cũng dễ
Chẳng khổ như cái nghệ làm văn
Lao tâm trí, tổn tinh thần
Nhà thơ vắt óc tìm vần gọi câu
Lắm lúc bí gan rầu ruột thắt
Thức thâu đêm mỏi mắt phờ râu!
Nhọc nhằn ai biết công đâu
Để cho thiên hạ giải sầu mua vui
Nghề thơ chẳng đủ nuôi thi sĩ
Nên bạn tôi phải nghĩ đường xoay
Nhà nho chữ tốt văn hay
Thời khoa lý số hẳn tay cũng tài
Vả xưa đã dùi mài Kinh Dịch
Báo An Nam chú thích tinh tường
Ngày nay đoán việc âm dương
Hẳn không bố phượu như phường ba hoa
Nào hãy đến Tản Đà Cốc Tử
Quẻ càn khôn hỏi thử xem sao
Xem tài thầy thấp hay cao
Mười câu hoạ có câu nào sai chăng?
Dù thầy có tán trăng tán cuội
Nghe nhà thơ lời nói văn hoa
Nhất khi rượu đã khề khà
Tán đâu ra đấy đậm đà có duyên
Thời khách mất đồng tiền đặt quẻ
Cũng vui tai và sẽ vừa lòng
Nhưng xin thầy chớ “nói ngông”!
Thân gửi Ngân Giang nữ sĩ
Chỉ trách khi vay, mấy cũng ờ
Tiền thì tiêu hết, chẳng ra thơ
Văn chương trước hãy lo đền nợ
Cơm áo sau rồi sẽ liệu cơ
Đã nổi tài danh từ thuở ấy
Hãy nâng sự nghiệp lúc bây giờ
Nợ đâu đã trót đem mang lấy
Rút ruột tằm ơi, gắng nhả tơ.
Thủ trưởng… tại gia
Ta là thủ trưởng tại gia,
Vợ là cấp dưỡng, con là giao thông.
Cháu là thường trực lông-tông
Khi nào có khách, mời ông vào nhà.
Mạn đàm trào phúng thi ca,
Điếu thuốc “Lao động”, ấm trà “Thanh hương”
Làm ăn giờ giấc đàng hoàng,
Sớm chiều nghe kẻng công an láng giềng.
Tiếng gọi của Nàng Thơ
Tặng bác Tản Đà
Ngồi buồn, em nhớ lại năm xưa,
Một buổi, đồi thông em thẩn thơ,
Nhìn đám mây bay, nghe gió thoảng
Trên cành, vi vút tiếng xa đưa.
Tình cờ, em gặp khách làng thơ
Lững thững bên đồi, dáng vẩn vơ.
Mải ngắm non xanh, nhìn nước biếc
Hình như mơ mộng, như say sưa…
Khách lại gần em đon đả chào,
Em rằng: “Sông, núi, cảnh thanh cao,
Thi nhân chừng đến tìm thi liệu,
Cảm hứng, nguồn thơ hẳn rạt rào.”
Tươi cười, khách trỏ rẫy non xanh
Ba ngọn cao vời mây phủ quanh,
Và bảo em rằng: “Non Tản đó,
Oai hùng, nghi ngút khí anh linh.”
Nhủ em nhìn giải nước quanh co,
Ôm ấp chân non chảy lững lờ,
Khách bảo: “Đà giang, tiểu Xích Bích,
Sơn thanh, thuỷ tú, ấy nguồn thơ.
Lân la trò truyện, lạ thành quen,
Dan díu, sau nên cặp bạn hiền.
Khách, kẻ thiên tài, em quốc sắc
Trời nuông đưa lại mối lương duyên.
Tấm tình trong trẻo như trăng thâu,
Thi sĩ cùng em quyến luyến nhau,
‘’Cửu phú, vần thơ thường xướng hoạ,
Đôi bên ý hợp lại tâm đầu.
Khi đêm thanh vắng, ngắm trăng trong,
Khi sớm an nhàn dạo núi, sông,
Khi rượu lưng bầu, thơ nặng túi,
Ngày vui em vẫn nhớ ghi lòng.
Bỗng một ngày kia, em chẳng ngờ,
Tình nhân em nẩy trí bôn ba,
Kinh doanh theo bước đường gai góc
Tình cũ, duyên xưa để hững hờ.
Trơ trọi, em buồn, em đợi mong,
Một mình ngơ ngần với non sông,
Non sông nay nhuộm màu u ám,
Em cũng phôi pha cặp má hồng.
Hỡi bạn lòng ơi, có thấu tình,
Mặc ai bôn tẩu, ai kinh doanh,
Mau về vui thú giang sơn cũ,
Chỉ để hồn thơ vướng lợi danh.
Tính công với bà nó
Bà khoán cho tôi một mảnh vườn
Cuốc lên làm cỏ thật tinh tươm
Bà mua rau giống đem về cấy
Có ngọn rau nhà chén vẫn hơn.
Gác bút, ngừng thơ ở giữa dòng
Nhà thơ xin nhận việc nhà nông
Tôi làm chậm chạp nhưng làm kỹ
Xong việc, xin bà phải tính công.
Đây luống rau xanh đẹp tựa bồn
Tôn làm hì hụi bốn hôm luôn
Mỗi hôm chỉ tính năm công điểm
Mỗi điểm xin bà… một cái hôn!
Tôi đi bầu nghị viện
Sáng nay, ngày chủ nhật
Mình đang ngủ ngon mắt
Bỗng có người tung chăn
Vừa lay, vừa gọi giật~
Bâng khuâng, mắt nhắm mở
Chẳng hiểu chi duyên cớ…?
Dụi mắt, hỏi u ơ:
“Cháy nhà ai thế hở?”
Thấy mình còn ngái ngủ
Buột miệng, bạn cười rũ…
Mắng bỡn: “Đồ dân lười!
Dậy làm bổn phận chứ!”
Tỉnh ra mình mới hiểu,
Sức nhớ bầu dân biểu
Nhưng tiếng giấc đang nồng
Một hai đã chực kiếu…
Bực mình, bạn giẫy nẩy,
Nắm cổ, lôi mình dậy.
Mình thấy bạn hung hăng,
Thôi đành phải dậy vậy.
Mặt mày vừa kịp rửa,
Bạn kéo sấp lôi ngửa
Đẩy uỵch vào ô tô,
Đi bầu sung sướng chửa?
Thế là bị bắt cóc,
Đưa vào trường nữ học.
Bạn bè sẽ rỉ tai:
“Bỏ phiếu cho sừ Lục”
Bấy giờ mới sực nhớ,
Mình cũng ra ứng cử.
Vội lách đám đông người,
Bầu phăng cho… Tú Mỡ!
Trách giăng già
Một mối tơ tình khéo cợt ta
Cợt ta chi mãi hỡi giăng già
Giăng già sao chẳng xe duyên thắm
Duyên thắm hay còn gỡ chửa ra?
Tú Mỡ và giải Nobel: Lấy vợ cho Hitler
Chàng họ Hít, chúa trùm Đức Áo,
Đang làm mưa, làm bão ở châu Âu.
Cậy ta lớn mặt, to đầu,
Các hiệp ước vò nhầu, quăng bỏ rọ!
Kéo binh tướng rầm rầm, rộ rộ,
Chiếm sơn hà nước nhỏ lân bang.
Cõi Trung Âu mặc sức dọc ngang,
Vênh mặt tướng ngang tàng, hống hách.
Hô khẩu hiệu “choảng” vi thượng sách
Hợp tay ba doạ thách toàn cầu.
Mấy nước giàu, trưởng giả ờ Tây Âu,
Lúc hoảng hốt ban đầu, cam chịu nhịn.
Theo chính sách cầu thân, cầu thiện,
Tưởng nhịn một câu được chín sự lành.
Họ lấy nê âu yếm hoà bình,
bắt nước yếu phải hy sinh lãnh thổ.
Nhưng chàng Hít thấy càng nhượng bộ,
Được đàng chân: lấn cổ, lấn đầu.
Khiến mấy nhà kinh quốc ngay râu
Hối hận mãi: to đầu mà dại!
Dùng phương pháp ôn hoà thất bại,
Các tướng liều cũng phải hung hăng.
Muốn phòng khi xảy việc bất bằng,
Bỏ bạc triệu để tăng binh bị.
Đúc súng đạn, khơi hào, xây luỹ,
Đóng tàu bay, tàu thuỷ, tàu bò.
Xem tình hình quốc tế gay go.
Khắp thiên hạ đều lo đại chiến.
Tôi có một ý tuy rằng thô thiển,
Nhưng cũng đem cống hiến các ngài nghe.
Phương pháp này để trị Hitler,
Khéo thi thố sẽ có bề công hiệu.
Anh càng ấy đầu bò, đầu biếu,
Sẵng không xong mà đấu dịu cũng không xong.
Ngẫm xưa nay chỉ bọn má hồng
Có thể khiến anh hùng tiêu sự nghiệp.
Hung ác đến như xưa Trụ Kiệt
Cũng vì đàn bà, phải chết đảo điên.
Gian hùng như Đổng Trác, Phụng Tiên
Cũng vì gái Điêu Thuyền nên tận số.
Anh chàng Hít hiện nay chưa vợ,
Vậy kiếm cho anh một ả má hồng.
Kén làm sao được sư tử chính tông
Sánh đôi với anh hùng vô địch.
Rồi chàng Hít, mặc dầu hống hách,
Trước hàm sư, khí phách sẽ tan tành.
Hoàn cầu may thoát khỏi chiến tranh
Sẽ ca ngợi: “Hoà bình thiên vạn tuế!”
Và tôi, Tú Mỡ, đã bày ra diệu kế,
Sẽ được công lênh cứu thế rất tài tình.
Nobel giật giải hoà bình…!
Tứ đại của Bà lớn
Vừa rồi thống Diệm mới phong cho
Thím nó (tức là vợ chú Nhu)
Cái tước “Cộng hoà bà lớn nhất”
Để dương danh giá của… bà to…
Một là cái bọng của bà to,
Phề phệ y như cái bọng bò
Vắt khố dân cày bà ních bẫm
Bao năm bèo bổ tức cùng tô.
Hai là cái mặt của bà to
Phèn phẹt y như mặt hổ phù
Bác thống cho ra làm đại diện
Còn trơ hơn thớt, cộp hơn mo.
Ba là cái miệng của bà to
Xoạc tận mang tai tựa miệng sò
Quàng quạc kêu gào xui phụ nữ
Bán mình đăng lính với đi phu.
Bốn là “nhân vị” của bà to,
Việc “ngoại giao” mần giúp bác Ngô,
Rất được vừa lòng quan chủ Mỹ
Ngày đêm khăng khít bợ cơ đồ.
Bác nó làm to, thím cũng to
Bốc nhau thối hoắc nhật nhiều trò
Đúng như cửa miệng người ta mỉa
“Một đứa làm quan cả họ nhờ!”
Tương tư
Vì ai nên nỗi nhớ cùng thương
Một mối tơ tình dạ vấn vương
Sáu khắc mơ màng hình bạn ngọc
Năm canh nhớ tưởng bóng người vàng
Ruột tằm chín khúc vò tơ rối
Giấc điệp năm canh diễn khắc trường
Muốn nhắn cùng ai, ai nhắn hộ
Mòn đuôi con mắt giải sông Tương
Văn tế Phong hoá tuần báo viếng An Nam tạp chí
Ngày 12 tháng năm dư năm Quý Dậu;
Ngu hữu là Phong hoá tuần báo đứng trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng:
Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu,
Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn dòng lệ rền rì buồn bã.
Than như không mà khóc cũng như không,
Im cũng dở mà nói ra cũng dở.
Nhớ bạn xưa:
Giấy trắng mực đen,
Nhà không tiếng cả.
Dựng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay!
Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to chuyện quá!
Duy trì đạo đức, giương Đông kích Tây,
Bồi bổ văn mình, dung Âu hợp Á.
Nhồi độc giả năm pho kinh sử, nhai đi nhai lại, chi, hồ, giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi,
Ru quốc dân hai hũ thơ sầu, mơ màng tiên, cuội, trời trăng, khiến niên thiếu liên miên bả lả.
Ố kim, nệ cổ đã từng phen nắm đuôi ngựa Phan Khôi,
Ghét cợt, chê cười còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong hoá.
Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại bao lần,
Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó, mai đây mấy thủa.
Hơn bảy, tám năm lăn lóc khi Hà thành khi Nam Định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi thua vẫn hoàn thua,
Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng Lọng đền Hàng Khoai thay dạng nọ đổi dạng kia ngán nỗi khá không thấy khá.
Vẻ vang thay nghìn rưỡi số in,
Hân hạnh lắm được một trăm độc giả.
Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng sức, cho qua thời kinh tế lung lay,
Nào hay đánh giấc ngàn thu, bặt tiếng im hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở.
Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ hiểu, luống uổng công phu,
Cho nên thăng thiên đường tái bản để Trời xem cho cao phẩm giá.
Than ôi!
Cùng làng ngôn luận tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả.
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Thương nhớ thêm ngao ngán dạ.
Vừa độ nào, ta đây bạn đó, điều phải chăng còn giũa bút luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn, thơ chua chát biết cùng ai xướng hoạ.
Thôi! Chẳng may mỏng phận, ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng:
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả
Mực nướng vài con, sò huyết một tá
Bạn có khôn thiêng
Xin về chứng quả!
Thượng hưởng!
Vịt con trong vườn trẻ
Tên thực là bé Việt
Như ông cứ khôi hài
Gọi cháu là thằng Vịt
Cho tên đúng với người.
Thằng Vịt con bầu bĩnh,
Hai con mắt lơ mơ,
Cái trán dô bướng bỉnh
Loà xoá tóc phất phơ.
Cái chân bước lạch bạch,
Đầu rướn trước ngang phè,
Đi lắc lư, lách chách,
Dáng khệ nệ, lặc lè,
Ở nhà nũng bố mẹ,
Đùa nghịch, quấy ra trò.
Mẹ đèo đến vườn trẻ
Không thích, chân cứ co.
Nhưng thấy cô ra đón
Tán nựng và nâng niu,
Vịt ta lại hơn hớn
Vui cùng các bạn yêu.
Cưỡi ngựa nhún rất bạt,
Ngả ghế làm ô tô,
Rổi cô dạy múa hát
Nghoe nguẩy và líu lô.
Có khi Vịt ra vẻ
Vườn trẻ ta đàn anh
Dắt màn cho em bé
Và dọn dẹp loanh quanh.
Thế mà cũng bận rộn
Ngày hai buổi mải mê.
Hết giờ, mẹ đến đón
Vịt: “Chào cô, cháu về!”
Câu chuyện “Tướng đi ỉa”
Tết ta chơi tam cúc,
Lỡ khi tướng phải chui,
Ta thường nói đùa vui:
“A ha! Tướng đi… ỉa!”
Nhưng ai có rõ nghĩa
Câu ấy ở đâu ra?
Đây xin kể nôm na
Điển tích này cũng mới:
Tháng mười một năm ngoái,
Tướng Alếchxăngđờri
Nướng tét ở biên thuỳ
Hai tiểu đoàn chủ lực.
Thực dân bèn cách chức,
Lôi anh khác lên thay.
Đờlatua tướng này
Nghe đồn tay cũng đảm
Cầm quân vừa một tháng,
Quan tướng đã vô tình
Lại đem cúng “Việt minh”
Hai tiểu đoàn thiện chiến!
Thực dân đau chết điếng,
Chỉ những thua là thua!
Cách cổ Đờlatua,
Cử Sài lang kế chức.
Tướng bị chui hậm hực…
Hang tin A.F.P.
Chữa khéo: “tướng phải về
Vì ngài mắc kiết lị”
Thực là câu chí lý!
Người Việt Nam chúng ta
Cũng bảo quả không ngoa:
“Tướng thua tướng đi… ỉa”
Ôi mớ đời mai mỉa!
Đánh chác bốn năm nay,
Bao tướng ta đổi thay,
Tình hình vẫn bi đát.
Nay ông tướng Đờlát
Họ Đờ Tátxinhi
Mới lên bài đã bi:
Đông Bắc và Vĩnh Phúc
Bảy tiểu đoàn ngã gục.
Canh bạc gặp hồi đen,
Cứ mất kết liền liền,
Rồi cũng đến kiết lị
Cắp đít về Tây… ị!
Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến quý độc giả những trang thơ vô cùng ấn tượng của nhà thơ Tú Mỡ. Qua đó ta cảm nhận được những tình cảm cũng như sự khinh bỉ của ông đối với xã hội thối nát.