Thơ Vũ Hoàng Chương được đánh giá cao và ông sinh vào năm 1916 và đã đậu Tú tài Tây sau đó ông học Luật. Tuy nhiên do không thích học luật nên ông bỏ học và làm phó giám đốc cho sở hảo xa. Và làm ở đó cũng không thích nên ông đi học toán. Đi học Toán cũng không làm ông thích thú nên ông làm thơ. Và ông đã có nhiều bài thơ hay độc đáo. Trong đó phải kể tới tập thơ Bút nở hoa đàm của nhà thơ Vũ Hoàng Chương.

Nguyện cầu

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ, dù sạch đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm.

Thoát hình

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần

Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần

Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành đấy, sinh là diệt
Đời “quả” lên từ mỗi xác “nhân”

Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc từng reo đã mấy lần

Nhựa ứ càng cao niềm giục giã
Đất trời mong mỏi nứt hương lân
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần

Ôi đã then sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân
Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối Đào-nguyên tự mở dần

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Bài ca dị hoả

Đêm hoả táng trần tâm, cõi đời nghiêng đổ
Thịt xương ôi! nằm nhé đất oan khiên
Trần cấu lâng lâng ngoài cửa mộ
Ta thoát hình, nương khói bay lên

Bắc đẩu ngang trời bạch lạp
Mây chiều nghi ngút toà sen
Khối kim ô bừng đỏ nén hương đền

Tịch mịch! hỡi ơi cuồng dạ
Say, ta đốt Thời Gian trong dị hoả
Tro tàn nẩy thắm quanh bên
Ngai son trầm mặc, sầu Đông Á
Ngủ nụ cười rêu tượng Đế-thiên
Bóng oanh liệt, Đồ-bàn Kim-tự
Ai hoài dâu bể tháp cô miên
Khoảnh khắc bỗng mang mang hồn gạch đá
Rụng muôn đời bi phẫn máu chim quyên

Bể xanh rũ áo tang điền
Tinh cầu trở gót
Quay về buổi mới khai thiên
Phấp phới Hư Không, kìa muôn loài hỗn hợp
Trái đất ban sơ, này khối lửa y nguyên

Ta say, ta đốt
Ta nằm, ta quên
Và ta nhớ, thuở lòng ta lẫn một
Với âm dương, đằm thắm ý giao duyên
Là đây ngọn lửa đoàn viên
Khói hương tiền sử bên đèn nao nao

Ngẫu cảm

Sao lên từng nụ ngọc lưu ly
Trái đất còn xanh chẳng vội gì
Hồ giỡn gót sen mây bạc đắm
Sông trôi tóc liễu gió vàng si
Trời mong thu tới cao vầng trán
Núi hẹn xuân về đậm nét mi
Cặp mắt trùng dương vừa gợn sóng
Kìa hoa đương độ nguyệt đương thì

Sống giữa chiêm bao vạn cuộc đời
Trắng tay sầu ngất tám phương trời
Thanh gươm quyết tử mài chưa bén
Ngọn bút mưu sinh giá cũng hời
Dâu bể hoang mang lòng phật khóc
Gối chăn lạnh lẽo tiếng ma cười
Bên sông từ đấy hoa mai nở
Không chút cuồng si tưởng bóng người

Trời vô tâm quá đất vô tình
Biết gửi vào đâu cái-chính-mình
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Màu đen lại ngả xuống màu xanh
Uổng cho thơ dẫu bầy trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành
Tưởng tới nguồn đào thôi lại tiếc
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh

Trở gót quê say ngược Suối Điều
Nét hoa mờ tỏ sóng phiêu diêu
Lên tiên về tục thương Từ Thức
Lấy ảo làm chân học Thuý Kiều
Vạn thuở đắng cay gì đỗ vũ
Một cành yên ổn chứ tiêu liêu
Đường xuôi cây đá bừng nhân ảnh
Cầu quạ chênh vời nguyệt té xiêu

Lửa khoá then mây bốn vách trời
Về đâu mộng cũng chẳng đành nơi
Vẫn chưa ý gửi vào thơ được
Mà đã dâu toan hoá biển rồi
Ngọn gió nghe chừng xoay mãi hướng
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi
Tin xuân lạnh lắm rồng ao cạn
Há chỉ phòng thu lệ nến rơi

Này lúc ngàn hoa đẹp sắc hương
Ghen gì tô điểm, hỡi Thu Nương
Cay men đối cảnh ngùi muôn thuở
Ôm bệnh lên lầu cảm bốn phương
Thuyền mộng đã trôi vào lửa khói
Tơ tình lại dệt xuống văn chương
Áo xanh buổi ấy màu thêm bạc
Mái tóc lo đời cũng nhuốm sương

Cảm truyện nàng Tơ

Khoảng đôi bờ chữ máu xôn xao
Nét mực bay hoa mở suối Đào
Ai oán tình Tơ thiên tuyệt kỹ:
Tang, tùng…! Nước chẩy khóc non cao

Từ hôm mười ngón đỏ bi thương
Nhịp trúc lời ca dứt vấn vương
Bút ấy ngờ đâu thề ấy cởi
Đêm nào… cho bến lại Tầm Dương!

Cho Tầm Dương lại bến Cô Tô
Quạ thét trăng tà rụng lá ngô
Đàn phới chiêm bao Chùa vọng xuống
Con thuyền Linh Cảm ghé vi lô

Sóng đìu hiu giỡn mái chèo say
Phách giạt Mê Hà quạnh tối nay
Trở giấc, đèn thu bông kết lửa
Trang từng trang, đã vướng tơ đầy.

Sầu lên Hợp Phố

đêm dài khép kín não lòng trai,
vỏ cứng nằm trơ ngọc thở dài.
sao rụng đã tan thành nước mắt,
chùa khuya lại vỡ tiếng chuông rơi.

Lửa cháy băng tan

sức Máy hàng trăm triệu tấn băng;
tư duy chết cứng, bẹp Thăng bằng.
thơ đâu?… Hãy thắp vào Cây sậy
ánh lửa mười phương Nhật nguyệt đăng!

Gió bụi đèn hoa

hoa đăng trong một kiếp hành hương,
nối kiếp nghìn thu Lửa đoạn trường.
khoảnh khắc dẫu ba chiều gió bụi,
vẫn đài thiêng nở sáng đài gương.

Ba chặng đường tu

nghe được từ lâu cá thở than,
hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn.
bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
là thấy đường lên cõi niết bàn

Chuông chùa nhất trụ

quả chuông lơ lửng ngọn cây chùa
gieo hạt từ bi khắp bốn mùa.
đây: trại Hàng Hoa, rừng Bách Thảo,
sớm chiều vang dội tiếng “nam mô”.

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương đã thể hiện trong tập thơ Bút nở hoa đàm. Thông qua tập thơ này ta có thể thấy được sự giác ngộ và cũng chính là lý tưởng và cuộc đời của ông. Đừng quên đón đọc những phần tiếp theo của tập thơ này để cảm nhận sâu sắc về phong cách thơ vũ Hoàng Chương bạn nhé!