Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.bNăm 1963 nhà thơ Vũ Hoàng Chương chứng kiến hành động tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Đó cũng chính là cảm xúc mà ông đã viết nên Lửa Từ Bi. Và hành động này đã chấn độc tâm can của nhà thơ. Ông đã đem cả thân mạng và sự sống để tham gia vào cuộc đấu tranh bất bạo động và chiến đấu cho hòa bình của Việt Nam. Hãy cùng tapchivannghe.com tham khảo các bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Bút nở hoa đàm nhé!

Lửa từ bi

Kính dâng lên BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨC

Lửa! Lửa cháy ngất Toà Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên…

Ôi, đích thực hôm nay Trời có Mặt!
Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga.
Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt
Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la.
Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
PHẬT-PHÁP chẳng rời tay…
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.
Không khí vặn mình theo
khóc oà lên nổi gió
NGƯỜI siêu thăng…
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-Đề.

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.

Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.

Ôi ngọn LỬA huyền vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi Vô-Minh
Hướng về Cực-Lạc.
Vần điệu của thi-nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời Kinh;
Tụng cho nhân loại hoà bình
Trước sau bền vững tình huynh-đệ này.

Thổn thức nghe lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về Cây.
Nam-mô THÍCH CA MẦU NI PHẬT
Đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt
tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.

Người với người

(Thông-điệp của MỘT gửi cho TẤT CẢ)

Chúng ta đều là NGƯỜI
Đều thế đứng cao sang
đều sắc máu đỏ tươi
Đều hãnh-diện trên muôn loài ngự trị,
Nhưng buồn thay… một phút nào kia
nếu không gian chẳng còn dưỡng khí
Cũng đều ngã ra chấm hết cuộc đời.
Sao các bạn, các anh, các chị
Ở nơi đây và tất cả những đâu nơi
Lại quên được – sao mà quên được nhỉ? –
Rằng “thịt da ai cũng là NGƯỜI”?

Nhân loại đã từng rên xiết
Đói rũ xương và khát cháy thiêu môi,
Quằn-quại với nhu cầu khẩn thiết
Qua bao thế kỷ nay rồi.
Tật bệnh, tai ương, điêu tàn, huỷ diệt,
Biển mặn ư? – Máu, lệ, mồ hôi!

Chính các chị, các anh, các bạn
Cũng có lửa khắc sâu lên trán
Từ sơ-sinh hai chữ CON NGƯỜI
Cũng mang nặng bùn nhơ kết khối phàm thai,
Cũng dương mắt bao phen
giữa dòng sao thác loạn
Cũng lê chân qua mờ mịt đêm dài,
Cũng da thịt biết đau từng vết rạn
Ở mỗi tế bào phân tán
Khi nắng đốt trên đầu gió quất trên vai.
Nhìn nhau, đây đấy một loài;
Xót xa nhau chút hình hài với nao!

Nhớ xưa Nhạc, Huệ,
Cùng tranh ngôi cao
Một lời thống thiết
Muôn đời gởi trao:
“Nồi da nấu thịt
Lòng em nỡ nào?”

Một con ngựa đau cả tàu nhịn cỏ,
Loài vật kia chẳng cũng dạy NGƯỜI sao?
Búa nện xương kêu, gậy đập máu gào
Đáng lẽ phải vang rền tim óc bạn,
Và chát chúa hồi thanh trong huyết quản
Dựng gươm đao cắt chính thịt da mình.
Lẽ đâu các bạn làm thinh
Nhìn CON NGƯỜI hiện nguyên hình ĐAU THƯƠNG.

Các chị các anh còn biết khóc
Mỗi xa người thân, chia uyên ương,
Còn biết những canh dài trằn trọc
Nhớ quê nhà chìm trong khói sương,
Còn trang sử ông cha mở đọc
Biết rưng rưng sôi chí quật cường,
Hẳn còn tim còn óc
Còn nhân luân còn linh tính
còn thiên lương;
Sao có thể đeo vết nhơ làm ngọc
Xức mùi tanh làm hương?
Kìa máu, máu!
Vết nhơ ấy lột da đi không tróc
Mùi tanh ấy quyện vào hơi vào tóc
Như mọc lên như sờ thấy trong gương;
Bóng mình chăng? Hay đó Quỷ Vô-Thường?

Không, ngàn lần không;
Chúng ta không phải Quỷ!
Mà hết thẩy các anh các chị
Với tôi cùng một loài NGƯỜI,
Tuổi ý-thức đã hàng trăm thế-kỷ
Dù, nói cho khiêm nhượng, mới HAI-MƯƠI.
Đau khổ đã cắt ngang vào não tuỷ
Nghĩa TỪ-BI xây dựng cứu đời;
Thì tin rằng mai đây và khắp nơi
Bóng HOẠT-PHẬT lung-linh đài TỬ-SĨ;
Muôn ngọn hải-đăng
Tỉnh hồn cơ-khí,
Bằng ánh sáng “vô chung vô thỉ”
Soi đường Khoa-học giữa mù khơi.
Những mầm mống TƯƠNG-TÀN, KỲ-THỊ
Như lá mùa thu phải rụng rơi.
Nhân-loại hiển chân-thân
cũng tìm ra chân-lý:
Đức HIẾU-SINH vằng vặc ngôi Trời…

Vững lòng tin ở XA-VỜI,
Bàn tay chẳng nhuộm máu NGƯỜI, giơ lên!

Gẫy một cành mai

Lòng son búa sắt
Tay chặt bàn tay
Dâng lên cúng Phật.

Máu hoà mưa bay…
Chén cơm thường nhật
Oan khổ đã đầy

Giờ đây, Mai đây
Một còn một mất
Trời đất cùng hay

Búa năm nhát, nát bàn tay,
Xé tung xương thịt cho bay lời nguyền.

Bàn tay NGUYỆN-VỌNG
Chặt đi còn nguyên
Chẳng BẠO mà ĐỘNG
Một ngăn mười truyền

Tay PHẬT năm ngón
Giam cả Tề-Thiên
Núi lật năm ngọn
Không tha cường-quyền.

Đó đây mài sẵn Long-tuyền
Búa năm nhát, phát lời nguyền cho Mai!

lời nguyền son sắt
lạy PHẬT-NHƯ-LAI
một điểm linh-đài
cứu cho đừng tắt.

Để những ai ai
Có mắt mở mắt
Còn tai lắng tai.

Nhìn thấu xương Mai
Tấm lòng Trời Đất
Nghe vang búa chặt
Nỗi đau cùng loài…

Biển Đông, ải Bắc, non Đoài,
Vọng về Nam, thét cho dài hồi thanh!

Bàn tay nguyện nối Trường-thành
Nửa chừng xuân, gẫy một cành sá chi.

Lòng Mai hướng cửa TỪ-BI
Khác đâu lòng ấy hoa quỳ hướng dương.

Chín phương mười phương
Giữa cuộc nhiễu nhương
Đã về hợp nhất…

Gió tung cờ phất
Thề lật bạo cường
Khẩu hiệu lên đường:
Không lùi chẳng khuất!

Dưới lằn roi quất
Vung gậy KIM-CƯƠNG
Đối diện Ma-Vương
Một còn một mất.

Oan cừu chứa chất
Mờ mịt Âm Dương
Nghẹn máu quằn xương
Tím gan ứ mật;

Lửa bùng cao ngất
Từ rẫy từ nương
Từng chợ từng trường
Khắp trời khắp đất,

Cháy lên rần-rật
Thành nén tâm hương.

Xin rủ lòng thương
Muôn loài muôn vật,
Giải thoát tai ương;
A-DI-ĐÀ-PHẬT!

Dư ba

Sống giữa chiêm bao vạn mối tình
Trắng tay mình lại vẫn riêng mình
Lưỡi gươm mài nguyệt còn vô dụng
Ngòi bút xuyên mây cũng bất bình
Dâu bể nghe đau lòng trái Đất
Gối chăn đợi ngát tiếng hoa Quỳnh
Nhắn ra muôn dặm về muôn thuở:
Vì cái TÂM nên luỵ cái HÌNH.

Hoa nào ấm mộng?

Từ hoa vương giả đến hoa hèn
Bướm cũng vừa say đã nhạt men
Giận khắp loài thơm lòng chẳng ấm
Còn chăng đâu đó LỬA ĐÀI SEN!

Tiếng khóc giờ đây

Phật có bàn tay dẹp bất-bình
Cả ngàn con mắt chiếu vô-minh
Chỉ đôi tai Phật, sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh!

Trời cao Phật hiện

Trời lưu ly hiện Phật Kim Cương
Mây bạc thân vàng nét tỏ gương
Quạ lửa càng sôi cơn thịnh nộ
Càng in bóng ngọc xuống mười phương.

Đô thành hoa lệ

Trời mất bao giờ có biết đâu!
Người đi sùng bái những ngôi lầu
Văn minh từng phút lên cao mãi,
Nhân phẩm càng chôn mãi xuống sâu.

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ Bút nở hoa đàm mà chúng tôi đã chọn lọc và chia sẻ tới bạn. Thông qua bài viết này bạn sẽ hiểu được con người và phong cách sáng tác của ông. Và đó cũng chính là lý do thầy Làng Mai đã nơi ông là người hái được cảnh hòa từ bi làm bút viết. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ này bạn nhé!