Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Trong khoảng thời gian từ 1963 cho tới 1977 nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã đem cả thân mạng và sự sống của mình để tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động. Điều này nhằm đòi hòa bình tại Việt Nam. Đó cũng chính là lý do ông từng nhiều lần bị tù tội thời gian đó. Và đọc Bút nở hoa đàm ta có thể cảm nhận sâu sắc được điều này. Dưới đây, tapchivannghe.com  sẽ giới thiệu đến các bạn những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ này.

Bánh xe Diệu Pháp

Đàn chim kêu thương
Cánh nặng chĩu một trời oan khuất.
Ngóng về Nam,
Về Bắc,
Cả hai phương sừng sững dựng mây thành.
Sân chùa cây bật gốc
Triền miên tử khí vây quanh.
Giờ cúng trái hãi hùng mưa gió
Từng tiếng kêu bé nhỏ
rào kẽm gai xé nát hồi thanh.

Cá dưới khe vọng về Đông, khắc khoải,
Sao lắng nghe vào màu xanh
Của sông phiêu lưu
của biển tung hoành
Chỉ thấy nước như nước hồ nước ao
nằm trong tù độc thoại?
Muôn trùng cửa khoá
hơi bốc lên mùi máu còn tanh…
Biển có chừng bao nhiêu góc?
Sông chia làm mấy mươi ngành?
Bọc trong gai, nghẹn lời kinh
Giạt về đâu, phút lâm hình nửa khuya?

Nhưng đá núi kia
Và lá rừng đây
Căm thù gan héo nát
Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy;
Thoắt đã cùng chim cá
Vùng lên tất cả
Niệm mười phương Phật hướng về Tây.

Là có hôm nay
Những người tu hành
Cản tay bạo ngược liều bom đạn
Nổi lửa Từ Bi giãi sắt đanh.
Tháp chín tầng cao đường dài sáu tháng
Năm mầu Cờ phất tương lai xanh.
Phật hiển hiện; muôn loài vững bước
Ào lên xiềng xích tan tành.
Trời quay mặt lại,
Sông núi hò reo cười sảng khoái,
Kìa xem: Ác quỷ đã rơi nanh!

Ôi niềm ngây ngất
Khói dâng mây lành!
Trang sử Việt
cũng là trang sử Phật
Trải bao độ hưng suy
dẫu nguy mà chẳng mất
Lại giờ đây sáng ngời uy danh
Hàng chữ số 2 5 0 7 (Hai, Năm, Không, Bảy)
Khắc bằng lửa vào lòng đây lòng đấy
Nơi trái tim Bồ Tát truyền sang tinh anh…
Cỏ cây nhập hội
Chim cá đồng thanh
Vần thơ sóng nổi
Dư âm nhiệt thành
Rằng: Xe Diệu Pháp ba ngàn cõi
Một cõi này thơm vết đấu tranh.

Trường ca Phật Đản

Đã chín trăm ngàn kiếp phù du trôi qua
Từ phút Tình thương nhập thể chói loà.
Trên giòng Thời gian
hợp tan bao nhiêu đời tinh đẩu;
Tới nay: thế kỷ Hai mươi sáu
Vừa Tám tuổi phương phi.
Lũ chúng con ngửa mặt chắp tay quỳ
Hướng nẻo sông Hằng nước Phật,
Cất tiếng niệm ngân vang chín tầng trời đất:
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni!

Cây núi Ngự kết ngôi vàng Phật ngự
Nước sông Hương mùi đạo ngát hương đưa
Một lời chuông gọi
Muôn ngàn tiếng thưa.
Nắng Trường Sơn đồng vọng
Hồi thanh Bến Hải mưa.
Từ khắp chốn, vượt dầu sôi lửa bỏng
Về nơi đây, mừng tủi mấy cho vừa!
Cầu Bạch Hổ nhịp vang gió sóng
Chợ Đông Ba đằm vị muối dưa;
Vút cánh dơi bay, này quá khứ gửi âm thừa!

Hơi đất mồ hoang về, lời lời ẩm ướt;
Lằn roi ngực lạnh về, tiếng tiếng u ơ.
Và một giọng cười điên lảo đảo
Xoay ngược Địa cầu trở lui vòng quỹ đạo,
Dốc thời gian đổ ngược hướng huyền cơ…
Chúng con chợt tơi bời tâm não
Nghe trong da thịt sững sờ.
Máu khóc xương kêu
trời ơi kìa: bàn tay ai bão táp?
Cho loài kim nghiến răng
bánh xe chà đạp,
Tám chồi măng rụng xuống
đêm ngàn thu bơ vơ…
Ôi, bây giờ tưởng bấy giờ;
Vui thành công lại hồn thơ nghẹn ngào!

Dĩ vãng chúng con: chuỗi hình nhân què quặt;
Mà Tương lai, mà Hiện tại…
e còn nguyên nước lửa gươm đao!
Bên tai như thét như gào
Những giây phút, những tháng năm tàn tật,
Lũ mê muội hiểu gì đâu lẽ còn lẽ mất,
Rồi đây nhân loại ra sao?
Lạy đấng Thế Tôn, xin trỏ đường vào
Thế giới của Tình Thương Đích Thật!
Cảnh giả thân hờ lây lất
Xa vời bến Giác chừng bao?

Thoắt đâu vầng nhật
Bè mây nâng cao;
Tiếng nổ chớp giật
Mười phương hải trào.
Nghe dội xuống tận lòng sâu trái Đất,
Tung ra hoà tấu khúc thần giao;
Và ức triệu rễ Bồ đề
tự muôn cành phơ phất
Rủ xuống trần tâm
đang mừng tủi nao nao;
Lòng chúng con; sa mạc khát mưa rào!
Kể đã ba mươi ngàn bảy trăm tuần
Trăng đầy Giác hải, nguyệt tròn Pháp luân,
Nay ánh sáng lại đêm rằm ngọt mật.
Cõi Ta bà: thấy chăng ngày đản Phật.
Tám nguồn công đức thuỷ
dâng về thanh khiết băng trinh?
Tám chồi măng: tám hành tinh
Nổi trên bọt sóng, hồi sinh huy hoàng.

Đâu còn vết máu,
Chỉ thấy hào quang!
Lòng tin mấy thuở đi hoang
Đã đến lúc về ngôi: Chín tầng Tháp Báu.
Thiền nguyên, thế kỷ Hai mươi sáu
Vừa tám tuổi hôm nay,
Giữa khoảng trời Nam Đất Việt này!
Lời tụng niệm vượt âm giai cao nhất
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật!
Đón dư âm ngừng núi lở sông bồi…
Càn khôn treo nhịp Luân hồi
Chầu quanh một bóng Phật ngồi từ bi.

Điệp khúc

Một tiếng hô lên
Rừng người quỳ xuống
Chầu quanh Bảo toạ Kim Liên.
Cành cỗi mầm non đều hớn hở.
Lá vàng xanh nín thở, từng cây giây phút nhập thiền.
Sông trầm tư, bến sầu miên
Vụt trở giấc, hồi sinh trong Quốc giáo.
Đài chót vót nở hoa Tái tạo
Uy nghi khoáng hậu vô tiền.

Sỏi đá cũng êm gối quỳ niệm Phật;
Tám mươi vạn tín đồ chấp tay nhìn xuống đất,
Xuyên qua bảy triệu thước bề sâu,
Chỉ trong nháy mắt
Đã cùng gặp nhau
Tận khối lửa trung tâm Địa cầu.
Tiềm thức cháy lên, vọng về cảm giác,
Mỗi tế bào rung thành nốt nhạc
Thể hiện lời kinh ngợp ánh đạo mầu.
Những tia mắt phóng đi,
vượt cả mấy muôn tầng nhiệt độ,
Cũng hồi chiếu dư quang về cửa sổ;
Ôi, từ đây nhục nhỡn có minh châu!

Lại một tiếng hô
Rừng người thẳng tắp
Trông ra, kìa! muôn trái nhựa bay lên;
Cùng đàn chim vừa được phóng sinh
nhịp nhàng bay lên,
Cùng khói hương ngạt ngào bay lên…
Cờ Phật mở tung ra từ những chùm bong bóng;
Trời thủ đô năm sắc rợp phi thuyền!
Gió mười phương, máu toàn thân nổi sóng,
Biển người dâng lên…
Ôi, những thuyền bay hay thuyền Bát nhã
Cao vời, cao mãi, vượt ra ngoài vũ trụ vô biên,
Chở theo lẽ Từ bi Hỷ xả
Từ đỉnh Tuyết giải trường sơn Hy Mã
Trước đây 2 ngàn 5 trăm lẻ 7 năm
Tháng tư ngày rằm
Đã hiển hiện kim thân Phật tổ.
Chân lý bay về đâu
sức sống niềm vui bay tới đó.
Ngoài càn khôn còn ức triệu càn khôn,
Sỏi đá nhìn theo mát rợi linh hồn…

Bỗng đâu từ thinh không
Mưa xuống những Bánh Xe vàng bạc
Ruổi bình minh rẽ nếp mây hồng;
In dấu lửa Pháp luân vừa khởi sắc
Nhô lên ngời chói phương Đông;
Tiếng niệm Phật, Bánh xe quay vang dội,
Lơ lửng triền cao dẫn nẻo lá khô về cội,
Lăn qua rừng thẳm đưa đường mạch suối ra sông.
Lũ chúng con ngẩng đầu trông:
Dĩ vãng, Tương lai, một bóng gương lồng.
Kìa dĩ vãng: triều Đinh triều Lý,
Biển lúa chín âu ca đời xanh bình trị,
Tổ tiên đều có Phật trong lòng!
Kìa tương lai, dặm dài xa vút mắt;
Nhưng vẫn tiếng chuông chùa dìu dặt
Mở trăm ngàn lối cảm thông,
Giải thoát mê tân nhân loại hoà đồng.
Nòi giống Việt hôm nay vào hội,
Niềm tin ấy, chẳng sức gì lay nổi!
Lá mơ về cội
Suối tìm ra sông…

Hương khói mênh mông
Rừng người chuyển gót;
Đoàn diễn hành tám trăm ngàn như một
Bước lên tề chỉnh uy nghi;
Từng bước, từng bước,
Lệ ứa tràn mi;
Lòng thêm gần Phật,
Đường xa kể gì!…
Ôi, con đường tiến tới Lửa Từ Bi!
Nơi hào quang sáng rực;
Nơi trước đây vị thần tăng Quảng Đức
Tự đốt mình lên tự huỷ mình đi
Cho cõi nhân sinh mát bóng Phật kỳ!

Hãy đặt gối xuống Ngã Tư lịch sử,
Một địa điểm chói loà vinh dự
Trên bản đồ thế giới từ nay;
Việt Nam đâu?
Nước có Ngã tư này!
Ngã tư này! Ngã tư này!
Lửa dâng lòng nước, hương bay về nguồn…

Tiếng thơ mùa loạn

Lẽ Từ Bi truyền ra cho Bạo Lực
Quỳ xuống nơi đây!
Dưới gót ngươi máu lệ tràn đầy.
Và xương tuỷ chúng sanh
khúc đã khô queo
khúc còn dính thịt.
Xương máu ấy từ lâu rên siết;
Mẹ Việt Nam
trời! đau đớn dường bao!
Ngươi lại hôm nay quỷ sứ nhập vào
Tay chém giết lộ nguyên hình rắn rết
Toan xông lên chà đạp nữa hay sao?

Hãy quỳ xuống buông cánh tay phun nọc
Rũ bàn tay ngón trót mọc gươm dao!
Mũi nhọn ấy xỉa mười phương tim óc
Của quê hương… Lòng Mẹ xót như bào!
Con rắn ấy với hai đầu đòn sóc
Mổ dọc ngang; thân Mẹ vốn gầy hao!

Đã đến lúc ngươi cầu xin tội lỗi;
Đây Việt Nam Quốc Tự nhịp gieo vàng.
Đã đến lúc ngươi quay đầu xám hối;
Chuông Giáo đường kia chẳng cũng khua vang?

Dân lành giữa phút tâm tang
Lòng đau nhóm lửa sẵn sàng.
Hai mươi tám ngôi sao lệ rỏ
Ngấn bạch lạp trên quan tài hiện rõ;
Tình yêu tổ quốc chân thành
Một với tình thương mười loại chúng sanh.
Mưa trút xuống cày sâu trang sử ngỏ
Giòng nước mắt dài theo đường Tí Ngọ;
Tình yêu nhân loại bao la
Một với tình thương muôn dặm sơn hà.

Lẽ Từ Bi truyền cho ngươi, Bạo Lực!
Xoá đi mau hình quỷ bóng ma,
Từ trong ẩn ức,
Trong mặc cảm, và ngay trong tiềm thức;
Để về đây huynh đệ một nhà;
Với bản lai diện mục,
Với hồn thiêng núi sông này chung đúc
Bốn ngàn năm vào một sát na!

Cảm thông, Đất Mẹ chưa già
Cành Nam may có nở hoa thanh bình.

Hoa Trang thành tượng

Các ngả trôi về muôn tiếng vang,
Trái tim rung cho đất rung theo nhịp chèo liên giang,
Chuông bay lên cùng nắng gieo vàng.
Giữa tiết Trùng dương ngày Tái tạo
Nghe mạch nước hồi tâm
bát ngát những thanh âm kỳ ảo;
Đây! Nơi đây thành tượng
Mùa thiêng Hoa Trang!

Ôi, mùa hoa Quách Thị Trang,
Hoa Học Trò bất diệt!
Còn nở mãi trên muôn giòng nhiệt huyết
Của tuổi tròn trăng, của tuổi bình minh,
Của thế hệ Đôi mươi lớp lớp có nghiêng mình
Trước màu vàng tươi ánh Đạo.
màu trắng ngát hương trinh!
Nhớ một sớm, đau niềm đau dân tộc,
Trang bước lên, miệng hoa cười gió lốc.
Cánh hoa gầy loang đỏ máu thư sinh.

Chỉ một cánh hoa gieo khối bất bình
Mà phút chốc, cả hồn thiêng Cách mạng
Đã giấy mực cựa men say
bướm bay giòng phấn bảng;
Nét chữ bừng soi sáng
Hào khí muôn đời một hiển linh!
Trang, từng trang sách vở,
Thấp thoáng in hình;
Nam, Ngãi, Sài đô, Thuận Hoá,
Bàn tay giao cảm đinh ninh
Nguyền kéo theo gươm, súng, bút đăng trình.

Lửa Từ Bi thắp lên rồi Chính Nghĩa
Hoa Học Trò xuống tiếp lệnh Hy Sinh,
Bạo Lực ấy phải cùng thiên tuyệt địa
Chờ tan thây trong tiếng nổ lôi đình.

Ngày Một tháng Mười Một
Trước đây vừa một năm
Giữa khoảng hai hồi chiêu mộ,
Hồn Trang đã nhập vào tiếng nổ
Cùng núi sông trời bể thét hờn căm.
Dưới mưa đạm một hình rơm xụp đổ,
Và trong tiềm thức chúng tôi
Thần tượng Hoa Trang
thể hiện ngay rồi.

Nay, sóng lớp phế hưng tiếng gào cấp thiết,
Dương mắt ngó Đông Tây
ngàn sợi dây oan nghiệt,
Ánh thép xưa hoài cảm phút mài trăng;
Viễn ảnh còn nguyên sóng dậy đất bằng.
Nơi tám ngả công trường
hịch vải chưa nhoà khí tiết
Chúng tôi đặt:
với tinh thần bất diệt
Của cuộc đấu tranh
mười tám tháng trước đây,
Tượng Quách Thị Trang
người nữ sinh hào kiệt,
Để thiên thu trường cửu đối cao dày.

Trời nghiêng đất lệch có ngày
Đá kia tượng vững chí này trơ trơ.

Năm ngón tay Phật

Bàn tay Đức Phật giơ lên
Hồi chuông nhịp mõ vang rền
Gọi tỉnh muôn loài trong cõi bụi.

Năm vị Thiền Sư lòng cao như núi
Và rỗng không như mõ ấy chuông này.
Gỗ rung Vàng réo Lửa
Đất Nước tình chan chứa;
Ngũ Hành Sơn ngồi nhập định khuya nay
Cho đến hôm nao thật có ban ngày…

Mười phương hùng lực
Chẳng sức nào lay;
Nước Việt miền Nam
mấy mươi vòng áp bức
Rồi như bụi cuốn tro bay

Năm vị Thiền Sư vẫn ngồi tuyệt thực,
Muôn vạn chúng sinh cùng đau rưng rức,
Lệ tuôn rơi nguyền xoá hết đêm dày.

Gươm dao mặc bọn người hung dữ,
Chỉ Phật trong lòng, Phật ở Tay.
Sáng rực con đường lên Quốc Tự,
Pháp Luân vừa hiện: mặt trời quay!

Tâm sự một giòng lệ
Nước mắt chảy thành sông
Về Ngôi Chùa Của Nước.
Kìa ai giàn thế công
Sắt thép ngăn đường trước!

Phải người máy hay không
Mà vô tình thế được?
Ôi, Hòn ngọc Viễn Đông
Lăn theo vàng Nữu-ước!

Câu “Trợ Trụ vi ngược”
Vang vang buồn mênh mông…

Bên đường chợt ngẩng trông,
Biển ghi: Trần Quốc Toản.
Sầu tủi dâng đòi đoạn,
Ông là ai thế ông?

Có phải trai thời loạn.
Ngày xưa phá quân Mông?
Những ai cùng quê quán?
Những ai cùng tổ tông?

Càng gẫm càng ai oán,
Cười phá lên gai chông;
Rách tan mọi huyết quản
Giòng lệ hoá sông hồng…

Chính nghĩa

TRÍ vút lên ngàn vạn trượng cao
THIỆN TÂM HỘ PHÁP chẳng hề nao
Ánh vàng tuôn khắp soi lòng súng
Tay trắng ngồi kia chấp mũi dao.
Năm hạng dân đều linh cảm thấy
Mười phương Phật đã hiện thân vào.
Những ai tráng sĩ con nhà Lạc
Trong mũ còn chưa dựng tóc sao?

Thời cảm

Khởi ưng dạ dạ thính đề quyên
Bút kiếm giai minh vũ hịch truyền.
Thi khả phục long kỳ phục hổ
Chung năng hồi nhật khánh hồi xuyên.
Nhất chiêu giác ngạn thiên hoa tán
Vạn lý xuân phong bát nhã thuyền.
Nam quốc sơn hà Nam Quốc tự
Như hà ẩm thuỷ bất tư nguyên!

Mùa xuân tháng tư

Thiều quang ngoài cả chín mươi
Riêng trong ánh đạo vàng tươi thấm nhuần
Tháng Tư mới vẹn mười xuân
Hoa Đàm nở, nguyệt Pháp Luân mới tròn
Gương đầy lên giữa khuôn mòn
Diệt là Sinh, Mất đang Còn phải chăng?
Đêm rằm mở hội hoa đăng
Con sông nào chả sông Hằng giờ đây!
Phương nào cũng một phương Tây,
Đỉnh non kia giải núi này: Tuyết Sơn!
Bóng mây hơi nước sạch trơn
Vết đau hình thể ý hờn âm thanh.
Cát nằm Bến Hải nghe quanh:
Bèo trôi hoài giấc tung hoành tỉnh chưa?
Hai chiều ngược nắng xuôi mưa
Bánh xe Diệu Pháp cùng đưa trở về.

Điềm Thái Hoà

Bước chân Di Lặc thoáng gần xa
Điềm báo rồi chăng buổi Thái Hoà
Nước chẩy đưa dần mây tới bến
Trăng lên đẩy ngược bóng về hoa.
Nhịp nhàng với trước sau không khác
Chót vót trong trời đất có Ta!
Hội mở tháng Tư lòng hiện Phật
Sáng trưng muôn hạt cát Ngân Hà

Núi kia sông nọ chùa này

Hạt cát tiền thân ngủ bến Hằng
Nơi này chợt tỉnh: Hội hoa đăng!
Nghe sông núi ngát từ muôn thuở;
Đất Việt trời Nam, Hương quốc chăng?

Sông núi thơm lừng lẫy
Chùa lên ngôi thành tên;
Cùng Hương giang với Hương Sơn ấy,
Vạn thuở Chùa Hương dấu Phật truyền.
Ba nén thắp lên
Cùng nghi ngút cháy,
Mười tám trăm năm từ mở kỷ nguyên.
Bao nhiêu đời tổ tiên
Hương lòng đã thắp,
Nào ta dâng lên
Cho khói chở niềm tin rộng khắp,
Lời nguyện xa bay.
Nguyện cho trời đất cao dày
Núi kia sông nọ Chùa này sáng danh.

Kìa ngọn lửa hôm nào đỏ rực
Kết nên mây lành;
Từ da thịt, từ trái tim
Thầy QUẢNG ĐỨC,
Lửa dâng cao mùa Pháp nạn
nghĩa hy sinh
Thì nước Việt đã là Hương quốc,
Núi sông nào chẳng ngát anh linh!
Phải đâu một Hương sơn miền Bắc,
Một Hương Giang của xứ Thần kinh!
Mà đâu cũng Chùa Hương
dấu thơm vằng vặc;
Ôi Việt Nam Quốc Tự
mười phương chứng minh!
Nén hương lòng nguyện chúng sinh
Tìm cho thấy Phật nơi mình, từ Tâm?

Chuông Chùa dội mãi dư âm
Đỉnh gươm dao bến mê lầm sạch không!

Hoa Vô Ưu nở
Tươi cành Lạc Hồng;
Bánh xe nhật nguyệt thanh bình mở,
Phơi phới đường lên tự hướng Đông.

Dư âm hạt cát

Theo ngọn triều lên ngủ bến vàng,
Kiếp hành vân gửi bóng lang thang.
Qua đêm, nước xuống, mây về biển,
Cát rã rời muôn vết dọc ngang.

Chừ… khắp bình sa, mỗi khối hờn
Nứt ra thành tiếng gọi cô đơn.
Tay ai vĩ tuyến vừa căng thẳng
Cho bản đàn thu bão nổi cơn?

Lời nguyện đêm thu

Nước non vô tội bỗng lăng trì
Xương máu càng đau hận biệt ly.
Nước bặt tăm rồi non chết ngất
Xương nằm trơ lại máu ra đi.
Nước tuôn trào máu còn mang nghiệp
Non rũ dần xương hẳn lỡ thì!
Hàn gắn nước non xương máu ấy,
Trăng tròn, xin dội ánh từ bi!

Bút nở hoa đàm

Ai sẽ là người trong tương lai
Một sớm một chiều
Vươn tay hái cành hoa Thương Yêu
Làm bút viết,
Nối vào trang sử loài người
Vẫn chép
Từ lâu
Bằng gươm, bằng súng đạn
Của Mông Cổ Thành-cát-tư Đại Hãn
Của Nã-phá-luân Hoàng đế Âu châu?

Bút sa nở trắng bồ câu
Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung.

Dư ảnh chiến thuyền chưa nhạt
Hồi âm ngựa trận còn rung,
Từng đã lên màu sát phạt
Hồn Chữ linh lung,
Từng đã say men gió cát
Hơi văn chập chùng;
Muôn nét Sử, một nghe triều nhựa mát
Thấm quanh mình, cất cánh sẽ bay tung.

Ôi, mùa đăng trình,
Có hoa làm bút
Nhựa tuôn giòng mực trắng tinh và trang giấy mang mang nằm đợi phút
Quay về bản thể nguyên trinh!
Đâu đó Trường Sa Quảng đảo
Vật vờ tro bụi chúng sinh?
Ngang dọc xương phơi…
chừ… Nam Việt Bắc Bình!
Cao thấp máu trôi…
kìa… Đông Tây Bá Linh!
Ác mộng ấy phải không còn dấu vết!

Ai sẽ là người, cánh tay hào kiệt,
Trong tương lai, một sớm một chiều,
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương Yêu?

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong tập Bút nở hoa đàm. Qua tập thơ này ta có thể thấy ông đã dùng thơ ca để đấu tranh. Đó cũng chính là phong cách của một người có tinh thần vô úy và anh hào. Để rồi ông được nhận xét là thi sĩ xứng đáng nhất trong lịch sử đấu tranh bất bạo động cho hòa bình tại Việt Nam.