Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Ông được đánh giá là người có sự kết hợp giữa cái hư ảo của phương Đông và cái thực, đời thường của Phương Tây. Bên cạnh đó trong thơ ca của ông cũng dành để nói về đạo lý và tính giác ngộ. Với tập thơ Bút nở hoa đàm ta có thể hiểu được sâu sắc điều đó.
Dưới đây, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn những sáng tác trong tập Bút nở hoa đàm, cùng cảm nhận nhé!
Từ đấy
giữa khoảng vô cùng bất tuyệt
bào ảnh chưa vang nhạc khúc luân hồi,
đã nơi đây một giòng trôi…
vẫn là NGƯƠI, một giòng trôi…
nhưng khác hẳn con sông bên lở bên bồi,
cũng chẳng sẵn hai bờ lưu huyết,
NGƯƠI chỉ tự đào sâu thành muôn đáy huyệt
để nhô cao thành ức triệu nấm mồ thôi.
đêm nào kia, chín phương trời
thâu cả lại vòng tay Hi-Mã-Lạp;
cho núi Tuyết hiện chân thân chín tầng Bảo Tháp
vươn lên trao một làn hơi
chứa sức sống bao trùm vạn hữu.
trong giây khắc, đủ Mười Phương thành tựu,
nét hoa Đàm nở tươi
và chân diện mục của Con Người.
sát na ấy, cũng lòng NGƯƠI ghi nhận;
giải lụa không màu hằn lên vết ấn
tròn đầy trăng đẹp tháng Tư.
chớp mắt lụa rung, ánh vàng lay ngấn,
giòng trôi thấp thoáng bè Từ…
ôi Thời Gian; NGƯƠI nhập đạo rồi ư?
bao thương tích trên mình NGƯƠI từ đấy
khép lại như không, và không hề máu chảy;
NGƯƠI đợi tròn trăng, mơ phút Giáng lâm…
mai đây lắng hết trần tâm
một giòng trôi giữa hương trầm tiếng chuông.
Đáp số
khoét thủng mãi vết thương Trời khuyết sử
tầng mây dị vực lo âu.
đất vươn thẳng một cánh tay Thần Nữ
đưa lên cao phiến đá năm màu
đã luyện cho vừa kích thước.
từ đấy về sau
đêm trần gian có gương có lược
có lưỡi liềm treo giữa không trung.
mỗi thứ lại nhân lên cho tới vô cùng
ở biển lớn sông dài hồ rộng ao sâu
ở ngà chuốt bình phong vàng thếp mái lầu
ở những giòng thơ ở những giòng châu…
là mặt nước hay không là mặt nước.
riêng nơi đây cảnh hồ đêm hư ảo
ngàn cuống sen như tuyết như băng
đã mấy thuở coi thường giông bão
cắt làm sao cho đứt, hỡi liềm trăng!
tơ trong cuống chỉ vương sầu kín đáo
hay thẳng tắp một phương lòng mộ đạo,
cần chi đâu lược Cung Hằng.
nhưng cũng thượng tuần qua,
khắp chốn khai đăng
cho phiến đá Nữ Oa tròn đầy gương mã não
giúp muôn cánh trắng hồng soi nếp áo,
hồ sen nỡ chối từ chăng?
kìa ánh sáng chào mừng Hoa Thất Bảo
chia lấy màu, chẳng mượn kính tam lăng.
ánh nguyệt bạch dẫu chia mà hợp nhất
cầu vồng bảy sắc tơ duyên,
từ thuở hai màu: Trời, Đất,
cộng vào năm vẻ Đá thuyền quyên.
và hết thảy gồm thâu trong Sắc PHẬT
để thành Không; nói chi Còn với Mất.
trăng thiên thu giác ngộ một đêm huyền.
vết thương Trời khuyết sử y nguyên?
hay lớn mãi trên chặng đường Sóc Vọng?
hay liền lại rồi ư, những đêm dài thẫm bóng?
da trời không dấu tích nào ghi…
bài toán đặt ra từ thượng cổ
vườn trăng đêm ấy Lâm-tì-ni
ngôi thứ Bảy đã bừng lên đáp số
lòng chúng sinh rửa sạch mọi hồ nghi.
sức vá trời đâu phải
một cánh tay truyền kỳ
đá vá trời đâu phải
riêng một khối huyền vi.
trời ấy thủng những vết thương vô số
ai gắn vào muôn hạt ngọc li ti?
há chẳng phải một “tình thương vô số”
đầy không gian thể nhập sức Từ Bi?
chim kêu đỉnh núi Nga Mi
tiếng vang “PHẬT HIỆN” bay đi khắp trời.
tháng Tư, đêm nguyệt tỏ ngời,
năm năm Giải Đáp một lời treo cao.
Cuồng ca năm Ngọ
thơ say dốc xuống từ bao năm
men dậy sông hồ vẫn nổi tăm.
dâu biển biển dâu càng gắt nhịp
càng chưa chịu tỉnh giấc con tằm.
cố nhân hoặc tân nhân nào hỏi,
đáp: tuổi trời cho đúng nửa trăm.
nhưng tuổi vương tơ đâu đã chín,
xuân này ta mới hai mươi nhăm.
hai mươi nhăm năm rồi đây!
một phần tư thế kỷ…
từ năm RỒNG bay đến nay NGỰA hí;
ta gượng vui cười cợt làm khuây,
mà chiếc bóng lê theo
nặng chĩu bước chân gầy.
có ai ngờ được nhỉ?
ta thất thểu trên đường thiên lý
mắt mòn theo tháng ngày,
như chiếc bóng như bước chân rền rĩ,
mong gặp CHÀNG SAY tác giả THƠ SAY…
ôi thất thểu sông Hồng đi tìm sông Nhị,
hồ Bạc nằm tương tư hồ Tây!
mỗi xuân sang mỗi sa lầy
giòng thi cảm dính bùn lây sông hồ…
thời gian chỉ một bến Cô Tô,
chớp mắt Đông Tây thành cố đô.
thuyền nát lòng khi rời khỏi bến
còn mang theo mãi tiếng chuông Chùa.
tim này vẫn đập
mái chèo xa xưa.
bầu không có rượu
trên vai đeo hờ.
tự bao giờ… lại bây giờ
nghe sôi mạch máu còn ngờ men dâng.
Trẩy hội
ba mươi năm trước hội CHÙA HƯƠNG
ải Bắc thuyền xuôi vạt áo sương.
bầu rượu nắm nem trời Xứ Lạng
đôi giòng một ngả nước sông Thương.
cỏ rơm chia ấm bao đêm trọ
sắt đá chung vui mấy doạn đường.
Chợ Tía, Đồng Văn, rồi Phủ Lý,
phương này hợp lại đủ mười phương.
trà xanh đón khách mười phương
non xanh đậm lợt biên cương Đại Hùng.
thoát trần như bước trên nhung
miền Nam ngược tới miền Trung đổ về.
trẩy hội đâu đâu cũng đổ về
Đông Đoài Nam Bắc một phương quê.
tạo “duyên” thay “nghiệp” giây Oan gỡ,
hiểu “sắc” là “không” bến Giác kề.
suối biếc chuyển lời kinh vọng khắp
bụi hồng theo ngọn gió tung hê.
bỗng dưng tìm thấy con người thật
của chính mình xưa trót lạc đề.
bài thơ HƯƠNG TÍCH vô đề
cắm sâu vần điệu bên lề Thời Gian
chữ bay từng cánh chim ngàn
mỗi câu là một Niết Bàn hoá thân.
chót vót Đài Thiêng chợt hiện thân
cây Từ Bi nở đoá tường vân.
trèo non cho biết TÂM không loạn
xuống động càng tin PHẬT ở gần.
mưa dưới vòm rêu ngừng lại nối
nhạc trong vách đá ảo mà chân.
càn khôn riêng một Chùa Thiên Tạo
hẳn đã lên ngôi trước Lý Trần.
những ai vua Lý vua Trần
mượn chèo Nam Hải xa dần sóng mê.
lòng thành trao tới vua Lê
còn đây cửa động chữ đề Nam Thiên…
rõ ràng PHẬT QUỐC ngự Nam Thiên
động mở kỳ quan đá nhập thiền.
chuông khánh nghe xa còn phảng phất
khói hương ngoảnh lại vẫn triền miên.
đường thênh thang đó, thân lìa tục;
đời hẹp hòi sao, mộng gặp tiên!
ngắm gốc Bồ Đề, ai có thấy
ngưng vào khoảnh khắc cả Vô Biên?
một vòng nhân quả vô biên
gió rung cây Bạc cây Tiền nhớ chăng?
hồn Thơ đã sạch như băng
suối Đào cung Quế đâu bằng Hương Sơn!
những từ mây khoá nẻo HƯƠNG SƠN
ức triệu tâm linh nặng khối hờn.
chia nước, người đi muôn dặm cách
mong tin, ngày kể bốn ngàn hơn.
lửa Ma Vương rắc, hoa nhiều vẻ
sóng Nại Hà sôi, huyết mấy cơn.
khói bốc lên trăng MÙA PHẬT ĐẢN
hao gầy thương bóng núi cô đơn.
mài trăng thẹn bút cô đơn
non xa DẤU NGÁT chập chờn hồn quyên.
dám xin PHẬT chứng lời nguyền:
năm sau Bến Đục neo thuyền hành hương.
Mơ chùa Hương
phơi phới hồn Thơ chắp cánh mây
đường lên đất Bắc mở trời Tây.
núi trong bóng Phật còn “thơm” mãi
động chẳng tay Người vẫn “dấu” đây.
một sợi kỳ HƯƠNG rừng suối dẫn
muôn trùng cổ TÍCH gió trăng vây.
trái mơ vàng ửng hoa mơ trắng
theo bướm về bên gối rụng đầy.
trắng vàng mưa thoáng nhẹ
hoa trái tóc thơm lây
mười phân một vẻ
tai lắng hồn ngây.
mơ Rừng Mơ như vẽ…
hương Chùa Hương như gây…
ngoài kia lan héo vũng lầy
nát trà mi, đỗ quyên gầy tin xuân.
tỏ mờ hai mảnh Pháp Luân
trăng gneo hoài ở thượng tuần thế sao?
Rừng Mơ vẽ lại bức chiêm bao
chẳng biết Chùa Hương điểm góc nào?
vách đá quên màu mây sửng sốt
chuông vàng lạc giọng suối nôn nao.
đứt tung bậc giốc mê đường xuống
treo ngược hang sâu tuyệt lối vào.
mặt giấy hốt nhiên chau nét bút
DẤU THƠM kia thấp thoáng trên cao!
giấy vừa chau nét mặt
trời cũng rách nền sao
ca trùng im bặt
hơi sương nghẹn ngào.
mơ Rừng Mơ ai dắt?
hương CHùa Hương ai trao?
mà nay phương vị lật nhào
Giải Oan đâu phải Suối Đào ngày xưa.
tung hoành mực đậm son thưa
ba chiều cảm ứng vẫn chưa thăng bằng.
không gian còn ngại trước gương Lăng
chiều thứ tư về sức vạn năng.
lòng mỗi chúng sinh nguyên có PHẬT
đời ai hàn sĩ nửa làm TĂNG.
bụi trong, sao ấn vàng hoen được?
nước đục, vì hoa diện sáng chăng?
thoắt đã từ hai câu hỏi ấy
lưng đêm mọc lớn cánh chim bằng.
đêm tung cánh vùn vụt
ngày sải vó băng băng
vơi bao nhiêu phút
đầy bấy nhiêu trăng.
Rừng Mơ dìu mộng bút
Chùa Hương lên nhang đăng.
Bồ Đề Thân đẹp bóng Hằng
cây khô còn vướng cát đằng nữa chi?
lời kinh dẫn bước chân đi
DẤU THƠM ở gốc Từ Bi, nơi Lòng.
ai vẽ cho thành nỗi ước mong
bằng muôn nét thẳng vạn đường cong!
bếp Trời ngay dưới đất
bến Đục vẫn là trong.
Pháp Luân một vẹn, CHÙA HƯƠNG ấy
chẳng mực son mà tự vẽ xong.
mấy phen lệ đá tuôn giòng
đầu non mây đợi quấn vòng tâm tang.
ai hay lệ rỏ vòm hang
đáy hang cũng đá nhịp nhàng mọc lên.
thân xưa thạch nhũ
rơi vào lãng quên
giờ đây thạch trụ
ngàn năm vững bền.
không gian nào kể dưới trên
thời gian nào kể hai bên có bờ!
tấm gương trăng Tỏ hay Mờ
Tròn hay Khuyết, chỉ danh hờ đó thôi!
chén vàng trong mắt tục
bao độ xẻ làm đôi
ánh vàng thơm Quả Phúc
lâng lâng chuyện lở bồi.
mới hay dằng dặc từ vô thỉ
đạo vẫn đoàn viên, mãi ở ngôi.
giấc mộng CHÙA HƯƠNG đâu phải “mị”
Rừng Mơ kết trái Thiện Tâm rồi.
Tuyết trắng gương trong
PHẬT giáng LÂM VIÊN thuở nguyệt tròn
lung linh NÚI TUYẾT giữa vàng son.
phai vàng ngôi báu son cung cấm
vạn thuở Tình Thương, tuyết chẳng mòn.
ai nung gan đá khô giòn?
ai thiêu cho ruột héo hon cỏ bồng?
người đâu xương sắt da đồng
mà ai sôi vạc lửa hồng bấy nay?
PHẬT động lòng thương kiếp đoạ đày
hoá thân làm tuyết bốn trời bay
kết hoa sáu cánh sen mười trượng
giọt tĩnh-bình xoa dịu đắng cay.
trăm trai giòng máu phương này
còn thơm nhờ PHẬT ngàn tay độ trì.
cỏ vành ngậm, đá bia ghi,
núi cao bên nớ, bên ni sông dài.
bao phen lửa quỷ thắt vòng đai
vóc ngọc thân vàng chẳng thể phai.
chuông khánh vẫn khua vang bốn biển
năm năm mừng bóng nguyệt NHƯ LAI.
chín phương một điểm linh đài
son to ĐẢN nhật bút mài HÙNG phong.
nhớ câu PHẬT ở trong lòng
càng mơ tuyết trắng gương trong đời đời.
Viên mãn
rối tơ lòng tịnh đế
mật tím sắc bồ quân
bụi độc khói cay sương nghẹn lệ
muôn trùng cỏ loạn nhớ ba xuân.
ngày đi… bước bước gian truân
mạn-đà-la nở tới tuần tròn trăng
Phật Mười Phương chiếu Pháp Đăng
tỉnh hồn ai “bán vi Tăng” mấy mùa.
tung hoành nẻo đô thị
sắt đá hiện hình vua,
cháy rực ngã ba đường Thế Kỷ
lẽ đâu không hiện bóng Ngôi Chùa!
nói chi rằng được rằng thua
còn chi mà bán mà mua hỡi người?
xương khô liệu có ngày tươi?
nhựa khô liệu có nét cười về cây?
trái đất rồi khô vỏ
nằm nhăn mặt lưu đày.
hỏi ai đủ sức hồi sinh nó
ngoài đấng Từ Bi đỉnh Núi Mây?
nói chi rằng đấy rằng đây,
ngàn xưa vẫn một Cao Dầy: PHẬT TÂM.
bến mê đã nức hương trầm
dễ ai gió bắt mưa cầm được ư?
bút thơ này nguyện góp
thân phận gầy ưu tư
thép mài năm tháng còn thoi thóp
tre rỗng trần tâm quyết chẳng hư.
dám mong Phật kết bè Từ
giữa đêm tròn bóng Chân Như giáng phàm.
cứu nguy từ gốc: phương Nam,
Bắc Đông Đoài sẽ lòng tham tắt dần.
Tháp đoàn viên
kính dâng lên Bồ Tát QUẢNG-ĐỨC
Tháp, Tháp Lửa chín tầng xây
giữa muôn trùng sắt máu vô tâm
hiện tình thương vào gạch ngói.
từng viên gạch chưa quên
đã nung lò Hoả Đức,
mạch đất tổ bỗng chứa chan Hùng lực
theo lời kinh nghẹn lệ đang trào ra, tung ra…
ôi, Tháp dựng ngay từ chưa dựng Tháp,
bằng Lửa Từ Bi đốt thịt xương!
nơi này đây cả Đô thành cúi rạp
nghe khói dâng nhoà ánh chiêu dương.
nam mô Chư Phật Mười Phương:
xoá rồi chăng, cảnh đêm trường Vô Minh?
ý NGƯỜI đã Kim Cương bừng nở;
tàn nhục thân Đạo pháp không lìa.
vẫn Kim Cương Bảo Toạ chỗ ngồi kia.
bóng cao vút thăng hoa về chính giữa,
tr^n bốn ngả đường mê.
Người khiến giác quan năm cửa
dẫn vào Tim sức Lửa
tự Hồng Bàng qua Đinh, Lý, Trần, Lê,
đã gắn chặt lòng dân, sử ngàn trang rực rỡ;
Người ra đi trường cửu với sơn khê.
lửa Dân Tộc, gốc BỒ ĐỀ,
trái tim này: một phương QUÊ nhiệm mầu.
tượng ai tạc, bút ai ghi cho xứng?
lòng muôn dân ghi tạc mới là sâu.
mùa PHẬT ĐẢN năm nay còn THÁP dựng
là Bóng Xưa Hình Mới nguyện gồm thâu.
rồi đây, rồi trăm muôn đời sau…
còn mãi THÁP LỬA THIÊNG,
Trái Tim Người còn mãi;
biển tha hồ dâng sóng cướp nương dâu.
ký ức VIỆT, qua phút giây thần khải,
vết kim cương sao có thể phai nhầu!
ôi, LỬA sẽ về đâu?…
bãi cát nằm say, bơ vơ cầu quán;
đang cùng lắng tai
lòng quê đòi đoạn.
kìa LỬA từ TRÁI TIM
bay ra muôn huyết quản,
ai nòi VIỆT đều nghe trong huyết quản
sôi lên Ngọn Lửa Bốn Ngàn Năm?
cớ sao bãi cát say nằm?
vì ai cầu quán đăm đăm mấy miền…?
Tháp Bút ngoài kia rào rạt
khuya nay cùng Tháp Báo Thiên.
nam mô QUẢNG ĐỨC Đại Bồ Tát.
ý Người ban ra,
khắp non sông đều chuyển đạt:
lửa từ bi hiện THÁP ĐOÀN VIÊN.
Bia hùng lực
đất PHẬT trời THƠ, một phen bĩ cực.
xót đạo thương đời, lòng đau rưng rức.
bồ tát thiêu thân, đêm tan đáy vực.
thế giới nghiêng mình, Việt-Nam bừng thức.
kìa tháp ĐOÀN VIÊN, này bia HÙNG LỰC.
đá hiện Thời Gian, khắc sâu ký ức.
thông điệp TỪ BI: TRÁI TIM sáng rực.
bốn ngả hành hương, đều nghe thơm nức.
giòng máu Lửa Thiêng, sôi lên trong ngực.
vững một niềm tin: NGÀN TAY giúp sức.
bèo bọt sông Mê, tìm ra lẽ Thực.
phá vỡ cô đơn, thoát ly áp bức.
ruột thịt hoà vui, trên đường chính trực.
đồng thanh nam mô: Bồ tát QUẢNG ĐỨC
Lửa… lửa… và lửa
Vừa mới hôm nào Lửa YẾN PHI
bay lên… nối cánh Lửa TỪ BI;
giờ đây, lại nỗi lòng dân Việt
đau xé trời Nam: Lửa NHẤT CHI…!
ba đợt cháy lên Thông Điệp Lửa,
đêm sao có thể đặc như chì?
đốt cho bom đạn tan thành lệ,
hai ngả sông sầu hãy nguyện đi!
hãy nguyện cho màu tang nổi gió
trên đầu quả phụ với cô nhi!
mẹ ơi, tóc hãy làm giông tố!
màu tóc màu tang có khác gì…
trắng một vòng bay quanh Trái Đất,
nối dài Thông Điệp Lửa uy nghi.
sáng chưng Hoả Lệnh, bồ câu trắng
sẽ đốt Thời Gian mở lối về.
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong tập Bút nở hoa đàm mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn. Thông qua tập thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ này. Cũng như các dấu ấn, giá trị văn chương và nội dung mà nhà thơ muốn chuyển tải. Đừng quên cập nhật những bài viết tiếp theo để đón đọc thơ hay bạn nhé!