Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.vÔng có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó cành mai trắng mộng là một tập thơ hay của nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Nó gồm hai phần là Thi phẩm và Nhị thập Bát Tú. Thông qua tập thơ này ta có thể thấy được những cảm xúc vô cùng tinh tế của nhà thơ này. Hãy cùng tapchivannghe.com tìm hiểu các bài thơ có trong phần Thi phẩm bạn nhé!
Ba hồi triêu mộ
Người-đi-tu-Phật chớ buồn
Giữa mùa Con-số-không-hồn tác oai!
Tờ a, b… cuốn 1, 2…
Giòng bao nhiêu… khoản mấy mươi… rành rành
Và… trên án sẵn ghi hình,
Thép gang rạch chữ Bất-bình càng sâu.
Người-đi-tu-Phật chớ sầu,
Mặc cho Con-số khoe mầu nhiệm xuông!
Trăm vòng dây Tội hoang đường
Cũng không giam nổi Tình-thương bao giờ.
Con-người về đất về tro,
Lửa còn dâng, nước vỡ bờ còn reo
Thành cơn gió đuổi hùm beo,
Cơ duyên sẽ uốn mình theo, ngại gì!
Người-đi-tu-Phật ra đi
Có buồn chi, có sầu chi… hỡi người!
Huế cảm
Giường thấp giường cao ruồi nhặng bâu
Xuân sang đối diện Quỷ-không-đầu
Mơ rồng ấp trứng sông Hương tủi
Lắng vượn gào con đỉnh Ngự sầu
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
Miền Nam câu hỏi trăm năm trước
Ai trả lời cho Huế… bởi đâu.
Bởi đâu non nước ấy tan tành
Lửa đỏ mây đen thắt chặt vành
Nặng dẫu bằng non thân cũng gục
Rửa cho hết nước máu còn tanh
Kim Long quẫy đứt hơi sương gió
Bạnh Hổ gầm vang nhịp sắt đanh
Từng tiếng ngân dài chuông tháp Mụ
Hồi thanh rền rĩ súng liên thanh.
Súng liên hồi nổ… kịch ai dàn
Đã một trăm năm chẳng hạ màn
Lần lượt vai trò rơi ấn kiếm
Dằng dai sân khấu ngập bùn than
Sông theo Phật hẹn giòng vơi lệ
Núi chống Trời tin đã vững gan
Gió lọt… bỗng dưng trên mặt giấy
La đà bóng trúc… Huế bình an.
Huế bình an chứ… đẹp bao nhiêu
Chẳng thấy không gian đủ bốn chiều
Cành trúc gió đưa về gốc Lạc
Câu hò mái đẩy tới trời Nghiêu
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều
Phủ lấy cho càng cao giá ngọc
Thơ ai từng dệt tấm thương yêu.
Dệt tấm thương nên nhớ ngược giòng
Chín thương mười nhớ đấy Châu-phong
Cố-đô Sử chép nhiều tên gọi
Trực-bắc Thơ dành một hướng mong
Nối lại thuở nay liền thuở trước
Nghe ra thành Phượng có thành Long
Cả Hoa-lư với Mê-linh nữa
Xác bướm đè muôn tảng đá ong.
Đá ong xây giữa mộng đêm vàng
Sầu Cố Đô lên vút tượng Nàng
Thành quách trải bao nơi lập quốc
Miếu đường thêm một chuyến cư tang
Ngọ môn vỡ tiếng rên gò đống
Bảo đỉnh sôi cơn giận xóm làng
Nửa giấc lạnh tanh rồi vạc thuốc
Cửa Sài nghe đạn réo vang vang.
Đạn réo vang vang… lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơn mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu chợt não nề
Cũng đất Hương Bình đen cánh quạ
Hẳn mây Nùng Nhị trắng phương quê
Xác thân mòn mỏi cùng dâu biển
Còn chút hơi Thơ gửi vọng về.
Gửi vọng về ngôi Sầu Cố Đô
Tan tành ngọc đá kể chi mô
Chiều Vân-lâu xuống hoài ư bến
Gương Tĩnh Tâm soi vẹn nhé hồ
Đối bóng vẫn mơ màng bóng hiện
Biết ai mà nhắn nhủ ai vô
Ôi bài Huế Cảm xuân dâng ý
Nghe có hơi thu họa dưới mồ.
Cành mai trắng mộng
Thời gian chập lại cả đôi kim
Một phóng, mười hai mũi trúng tim
Giờ điểm Giao thừa… Ai gọi đó?
Mang mang tiềm thức bóng quê chìm
Góc màn sương khói nằm im
Cố đô mờ nét cuốn phim tháng ngày
Đã từ lâu… Thoắt giờ đây
Lòng căng thẳng chiếu lên đầy bóng quê
Hàng Cót trường tan, sóng tóc thề
Dâng vào Yên Phụ ngược con đê
Xuôi ra Cống Chéo sang Hàng Lược
Từng dấu bèo theo giạt bến mê
Vàng thêu tượng đá Vua Lê
Cây quỳnh giao, lối đi về Chợ Phiên
Thoát thai từ truyện thần tiên
Phất phơ bướm nhỏ chim hiền tung tăng
Đêm vườn Bách Thảo hội hoa đăng
Cặp má đào ai giợn tuyết băng?
Chiếc vượn non Nùng ngân tiếng hót
Rung theo hồn đá với hồn trăng
Mùa thu Hà Nội trẻ măng
Gió may cũng gió Gác Đằng nhiều phen
Sánh vai nhau chọn hàng “len”
Đẹp đôi cho đất trời ghen hai người
Xe điện Hà Đông xuống nửa vời
Mưa phùn men bốc cỏ xanh tươi
Vùng Thanh Xuân, buổi Thanh minh ấy
Chẳng biết chàng si hẹn gặp ai?
Rồng lên một bóng u hoài
Ôi thôi, từng khúc ngã dài tâm tư!
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành mai trắng mộng, đêm trừ tịch xuông
Tin xuân lữ thứ nghẹn hồi chuông
Lệ vỡ mười hai “nốt nhạc” cuồng
Sân khấu lùi xa vào ký ức
Phai dần hư ảnh, cánh màn buông
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao?
Cố đô lửa ấy gan nào?
Sài đô son sắt như bào như nung
Đêm hiển linh
Ngõ cụt, về khuya, bước dẫm lên
Mấp mô từng tiếng nấc ưu phiền
Hỡi ơi! Mẹ vẫn còn đau mãi?
Nhát chém thành Sông, thịt khó liền!
Tê rời mạch máu giang biên
Mười năm cốt nhục hai miền cắt ngang
Vết thương khoét lở đá vàng
Sông trôi, tiềm thức nghe vang mấy bờ…
Còn đêm, hết ngõ! Chợt bơ vơ
Liệu hết đêm còn ngõ đứng trơ?
Phải bóng mình đây, nằm sát đất
Như trong lòng Mẹ, đứa con thơ?
Vườn hoa, pho tượng thẫn thờ
Bóng nằm kia, hẳn đợi giờ thần giao
Từng đêm hơi đất ngấm vào
Sẽ vùng lên một đêm nào đó chăng?
Gấm hoa
Xa tặng KIỀU THU
Trời Cố đô cao vút
Tuổi mười lăm hai mươi
Em là gái Hàng Cân Hàng Bút
Thăng bằng muôn nét thắm tươi
Anh là gã thư sinh Rừng Bách thảo
Giữa cỏ cây muông thú gọi tên người
Tiếng bay xuống tận phố phường đông đảo
Chen cánh hoa xoan hoa gạo
Rèm tơ ý nguyệt đầy vơi
Cân nào không rung chuyển
Bút nào không tơi bời
Chim xanh qua lại muôn ngàn chuyến
Bao nhiêu là Anh Ơi, Em Ơi…!
Gặp nhau lời vẫn nghẹn lời
Đón đưa buổi học xa vời bước chân
Hồ Tây Bách Thảo nức hương lân
Hàng Bút Hồ Gươm cũng rất gần
Anh có mơ hoa Em mộng gấm
Đôi hồ soi đã tỏ mười phân
Lệ tương tư lại bao lần
Cả hai cùng gửi vào thân phận hồ
Dịu hiền gương mặt Cố đô
Thoắt thôi gợn sóng điên rồ nhớ thương
Trăng nhà ai tròn khuyết
Thời cơ gió nhiễu nhương
Hà Nội thắt vòng đai tuế nguyệt
Em nghe sầu rối tơ vương
Trời Nam Định Thái Bình rung sấm sét
Anh lang thang lòng đứt cỏ uyên ương
Sừng sững dựng bức thành mây lửa dệt
Xa cách hơn bao giờ hết
Non Nùng cấm địa một phương
Vuốt đâu xuyên chiến luỹ
Cánh đâu vượt sa trường
Tìm nhau trong khói men cuồng tuý
Nửa giấc mành Tương loạn sóng Tương
Quê Tình hoang đảo mờ sương
Chiêm bao càng khổ chiếu giường phong ba
Hồ Kiếm Hồ Tây vẫn đậm đà
Quanh hồ đâu chẳng ấm hơi ca
Riêng cầu Thê Húc son thêm lợt
Đê Cổ Ngư thêm lạnh tiếng gà
Em giai nhân dẫu không già
Anh thi nhân dẫu không nhà càng thơ
Nhưng thương cho mộng cùng mơ
Gấm hoa đến thế ai ngờ nổi trôi
Bến xưa vừa trở bước
Sông núi đã chia rồi
Em ở lại sầu gương tủi lược
Bồ hòn kết đắng hoa môi
Anh ra đi, cánh phiêu hồng trốn tuyết
Hay cánh thiên nga trốn vạc dầu sôi?
Cũng có khác gì đâu! Trăng vẫn khuyết
Đời vẫn gần thêm cửa huyệt
Men chiều khói sớm đơn côi
Nắng nào không xao xuyến
Mưa nào không bồi hồi?
Tiếng kêu ném ngược đường kinh tuyến
Chỉ thấy vòng quanh trở lại thôi
Biết chăng? Còn khúc “Gọi đôi”
Còn chìm Phượng ấy dành ngôi cho Hoàng?
Trái Đất rồi hôm nào vỡ toang
Giữa muôn tia tím ánh hồng loang
Thịt xương tro bụi không phân biệt
Anh sẽ dìu em mắt mở choàng
Địa Cầu quá nửa đi hoang
Còn đây một mảnh sáng choang nụ cười
Mơ hoa mộng gấm bừng tươi
Một hành-tinh-mới, hai người-yêu-xưa
Bí mật Acropole
Đỉnh hoang phế, đây hoàng hôn nhân loại
Đang vây quanh chờ giải đáp một lời
Muôn nếp sống, từ ba chiều băng hoại
Của văn minh, tìm dấu trở về nôi
Trèo ngược dốc hai mươi lăm thế kỷ
Ta bước lên sầu đá dựng lưng đồi
Hỡi tàn tích giữa Athènes huyền bí
Acropole, thi sĩ Việt chào ngươi!
Đá vẫn ngậm sầu trong cơn thử thách
Với thời gian, không hàng phục buông trôi
Nên kho báu chẳng hóa thân từ thạch
Cũng vàng thưa sắt ứng mãi quanh ngôi
Vàng với sắt: những gông cùm hãnh diện
Đeo trên mình Thế kỷ thứ Hai mươi
Đứa nô lệ nào đây lê gót đến
Acropole… mà ngơ ngác nhìn ngươi?
Mặc gió táp, mảnh thành xưa đứng sững
Cột chênh vênh không nhả nóc lâu đài
Mấy pho tượng gối què chân vẫn cứng
Không cúi đầu, tuy đá chỉ còn vai
Ta cố hình dung mặt hoa Thần Nữ
Đá căng tròn ngực tượng bỗng đầy vơi…
Nghe trang sách Vô Ngôn vừa gợn chữ:
Mau ném đi tất cả, hỡi Con Người!
Thi sĩ Việt trong tay không tấc sắt
Chưa giết một ai trên nẻo luân hồi
Vàng-hoen-máu chưa một lần để mắt
Acropole, ta đã hiểu lòng ngươi!
Và, cũng mặc gió thời gian hí lộng
Ta ung dung thả bước xuống chân đồi
Lấy vần điệu chuốt pho thần tượng sống
Hiện thành Thơ lời giải đáp thay ai
Mộng chim liền cánh
Xa tặng YSA
Cách nhau mười chín giờ bay
Mà không liền cánh chim này được ư?
Cây sầu trút mãi lá thư
Nhớ thương nát cả danh từ, hỡi ơi!
Đêm đêm nhìn ảnh mơ người
Đến mòn da phấn môi cười nhòa hương
Ảnh treo dần khắp bốn tường
Siết vòng vây một góc giường đảo hoang
Sóng thu giợn ánh hồi quang
Gối chăn bốc lửa sầu loang canh dài
Nằm đây giõi bước chân ai
Cánh bưu hoa nở dấu hài lãng du
Ba Lê đẹp áo vàng thu
Mặt trời La Mã sương mù Luân Đôn
Bờ Thiên Thanh lắng hoàng hôn
Đổ xuôi Bạch Lĩnh tâm hồn tuyết băng
Hỡi ơi, cô gái tròn trăng
Duyên bèo mây lại kết bằng tóc tơ!
Ba năm một mối tình Thơ
Núi trông mây, bến còn mơ tưởng bèo
Tình chưa nổi sóng mà xiêu
Biết ai nhớ ít thương nhiều hơn ai?
Muôn giòng thư, hãy nối dài
Cho song hồ với trang đài liền nhau!
Sẵn trăm ngàn bức thư sầu
Đường kia nối cả địa cầu nguyệt cung
Hai phương sẽ hết lạnh lùng
Đêm vào một giấc mơ chung với ngày
Sá chi mười chín giờ bay
Mà không liền cánh chim này tương tư
Buồn điều chi
Người buồn ư? Buồn điều chi
Hỡi hỡi CON NGƯỜI viết bằng mẫu tự?
Trong đó có anh, gã đàn ông biệt xứ
Trong đó có em, bà công chúa hoài nghi
Có cả anh, chàng trai từng đêm tự tử
Có cả em, cô bé giữa mùa vu quy
Và cả anh, tay hào kiệt đang làm lịch sử
Và cả em, gái cầm ca chớm hết xuân thì
Tôi biết anh buồn điều chi
Tôi biết em buồn điều chi!
Này nhé: mười phương tâm sự
Cuốn theo ngày tháng trôi đi…
Khoảnh khắc trời hoang biển dữ
Nghe quanh tiềm thức, tư duy
Siết chặt giải băng sơn, đè nặng đám mây chì
Hoa còn đây, trăng còn đó chứ!
Nhưng là hoa là trăng thế kỷ Hai mươi
Và chúng ta, đâu phải những con người
Của bình minh Ngôn ngữ!
Mà có thể chạy theo trăng tìm nhạc tứ
Ngồi bên hoa chờ bắt sóng hương trời…
Hoa kia dù úa dù tươi
Cũng chỉ là biểu tượng
Kết thành bó
trong tay một cô dâu miễn cưỡng
Hay kết thành vòng
trên nấm mộ nắng mưa phơi
Cuộc thưởng hoa bày cho hoa tự thưởng
Mặc cho phấn khóc son cười!
Giữa nếp sống duy hình, duy lượng
Thề hoa; câu chuyện nói mà chơi!
Vầng trăng kia tròn, khuyết, đầy, vơi
Cũng chỉ là một sân bay
để phi thuyền đáp xuống
Gần, xa… trong tương lai
Núi phễu chênh vênh: chỗ đặt pháo đài
Rốn biển Câm: dàn hỏa tiễn ngày mai
Ảo ảnh cung Thiềm chết uổng
Cành đan quế mang trái cầu mọt ruỗng
Nhạc Vũ y pha tín hiệu ngắn dài!
Ôi, diễm lệ màu hoa, nét trăng tình tứ
Đang từng phút sa lầy vũng bùn Nguyên tử
Nàng Thơ vạn kiếp sầu bi!
Kìa: ngập tới thềm vai, ngập tới rèm mi!
Đất dựng sững thành băng
Trời đậy kín vung chì…
Đã đến lúc vùi sâu kim cổ
Trọn một nếp văn minh
cả ngàn thu phong độ
Nhường cho loài Máy chỉ huy
Lúc ấy Con Người, gọi tên bằng chữ số
Hẳn sẽ không buồn điều chi!
Vì chẳng còn anh, gã đàn ông biệt xứ
Vì chẳng còn em, bà công chúa hoài nghi
Cũng chẳng còn ai từng đêm tự tử
Cũng chẳng còn ai giữa mùa vu quy
Và chẳng còn đâu Lịch sử
Và chẳng còn đâu Xuân thì!
Hỡi hỡi Con Người chẳng còn tên ấy nữa
Làm sao ngươi buồn nổi điều chi!
Nghĩa trang câm nín
Hồn ma rên rỉ đáy mồ sâu:
Đất sống còn chăng cuối nhịp cầu?
Mép vải tay run, người cúi mặt
Phù kiều ai biết dẫn về đâu!…
Hai hàng thông đứng trơ trơ ngọn
Nhìn thấy gì, sao chẳng mách nhau?
Ơi hỡi!… đêm đêm bừng trái sáng
Cây già nhiễm độc chết từ lâu!
Chỉ nghe siết chặt quanh hài cốt
Màng lưới Âm ti mắt đỏ ngầu…
Paris tái ngộ
Trường bay vàng rót hoạ mi,
Chàng Say chẳng hẹn Paris vẫn chờ.
Kim thời gian trỏ Không-giờ,
Đường hoa sực tỉnh bất ngờ… dậy men.
Tiếng chào vang đỉnh Eiffel,
Mở vòng tay cũ, sông Seine trắng ngần.
Rimbaud có phải tiền thân
Từ Phi-châu khoác phong trần hồi hương?
Hay gò Montmartre đêm sương
Hậu thân nào của phố phường Thăng-long?
Cánh tay kia: giải sông Hồng;
Tháp kia: tháp Bút soi lòng hồ Gươm!
Đài mây bao độ tơ ươm,
Khải-hoàn-môn lại dìu bươm bướm về.
Bước chân rợn cỏ Bồ-đề,
Một hay năm Cửa nhất tề nở Sao?
Tàn đêm loãng khói chiêm bao,
Người yêu Hà Nội say vào Paris!
Kỷ niệm Đông Âu
Ôi hồ Bled! Chiều nay giòng Cảm-xúc
Đổ về ngươi muôn ngòi Bút tương thân.
Sóng hải đảo gió mây hai đại lục
Trời Nam-tư hò hẹn đã bao lần!
Đón thi hữu, sá chi phòng khách thính;
Giữa lòng ngươi, kìa thấp thoáng non thần.
Ngay đầu non, một lâu đài cổ kính,
Nếp vương hầu sương mỏng áo giai nhân.
Ngọc lấp lánh, chừng như lầu với núi
Mọc lên theo bầy tinh tú thủy ngân.
Ai khéo đúc một “Đào-nguyên bỏ túi”
Mà xinh xinh ngàn cánh bướm ân cần?
Nào Rôma nào Athènes, Belgrade,
Cuộc hành trình bao cát bụi vương chân.
Bao hùng vĩ, kiêu sa… nhưng lạnh nhạt;
Đâu bằng ngươi, hồ núi Bled thanh tân!
Vòng tay gọi của “người yêu” bé nhỏ,
Ngực đá hoa rung động nét thùy vân…
Dốc thoai thoải lên Địa-đàng Trung Cổ,
Lòng ta nghe mỗi bước tự gieo vần.
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Cành mai trắng mộng. Ở đó ta có cảm giác cồn cào và nhớ thương. Bởi thông qua các cảnh vật nhà thơ đã thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của chính mình. Đó cũng chính là nét tạo nên sự độc đáo trong phong cách thơ của Vũ Hoàng Chương.