Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Thơ của ông có nét rất hay và độc đáo, trong đó phải kể tới tập thơ Cành mai trắng mộng. Đây là một trong số các tập thơ làm nên tên tuổi của ông. Có thể nơi ông xuất hiện trên văn đàn khi tên tuổi của các nhà thơ lớn phong trào Thơ mới đã đi qua thời đỉnh cao. Nên ông cũng có những nét rất độc đáo. Hãy cùng tapchivannghe.com tìm hiểu các bài thơ có trong tập Cành mai trắng mộng của nhà thơ Vũ Hoàng Chương bạn nhé!
Công chúa mười lăm
Xa tặng YSA
Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?
Tìm nàng, thôi đã nát Âu châu
Ba Lê, Nhã Điển hay La Mã
Đâu cũng rêu in lệnh Miễn Chầu
Sân chầu lẻ cặp, những vần thơ
Giạt tới Sông Xanh lạnh ngắt bờ
Nét vẽ bay lên sườn Núi Trắng
Đâu rừng Thi Hoạ thuở ban sơ?
Ta mỏi đi hoang chín kiếp dài
Áo thêu rồng phượng rách chông gai
Nhớ năm xưa đến khu Rừng Cấm
Lục địa già nua bỗng đẹp trai
Kiếp thứ mười nên bước đã chồn
Ta gieo mình xuống thảm hoàng hôn
Ngủ chung giấc ngủ nàng Công Chúa
Mơ tuổi Mười Lăm biếc lại hồn
Nàng say sưa ngủ dưới trời sao
Chợt gọi tên ta giọng ngọt ngào:
“Anh nhích gần coi em vẽ bóng
Cho Thơ là một với Chiêm bao!”
Đê mê nhịp thở phút huyền ngưng
Đôi lứa chìm sâu đáy Tượng trưng
Ta nhủ: “Kìa em! Thơ mở lối
Còn sâu hơn cả trái tim Rừng!”
Đêm cũng đêm sâu nhịp với Tình
Nhưng đêm nào chẳng có bình minh
Ta hôn mười ngón tay vừa nở
Rồi bước đi hoang lại một mình
Tưởng đâu Rừng Cấm mãi thâm u
Nàng chẳng bao giờ mở sóng thu
Vì chẳng bao giờ ta cất tiếng
Gọi cho nàng tỉnh giấc ôn nhu
Năm năm trở bước một lần thôi
Hoàng-tử-không-nhà lại có ngôi
Giấc ngủ bên nàng, đêm tái tạo
Thơ ngâm truyền lửa đoá hoa môi
Ai hay một sớm tự non Sầu
Ngập gió bay ra lệnh Miễn Chầu
Cánh quạ nối hàng, đen khủng khiếp:
Tin nàng Công Chúa bỏ rừng sâu
Hôm trước, loài kim hiện ngọc ngà
Hoá trang làm một chiếc thiên nga
Xé mây Bạch Lĩnh… Ôi, Người Đẹp
Trút lại tàn y: Lục-địa-già!
Biển Bắc trời Âu hết đẹp trai
Nhoà tranh Siêu thực bóng trang đài
Thơ Trừu tượng cũng nhoà linh giác
Hồn chẳng đong đầy cặp mắt nai
Ngơ ngác rừng xưa đá chập chừng
Nơi nào Cửa Khuyết hỡi Mê cung?
Nàng đi mang cả hồn Thi Hoạ
Trời biển nằm trơ mấy mảnh khung
Ta biết nàng đi chẳng một về
Tìm ai Nhã Điển với Ba Lê?
Mấy phen La Mã ghì vân thạch
Tượng ngủ không bay gợn tóc thề?
Hỡi ơi, Công Chúa vượt trùng dương
Đất mới hoa dâng khắp ngả đường!
Sáng rực nơi nào đôi mắt biếc
Là nơi ấy mở một triều Vương
Hoà Lan Đan Mạch nắng vàng thu
Đôi bạn tình xưa phút mộng du
Hài gấm chỉ còn ta nhận dấu
Chừ, xuân ngăn ngắt tím sa mù
Ngẩng nhìn: Sông Bạc chẳng mưa tuôn
Châu Á khuya nay đọng khối buồn
Thăm thẳm mấy phương lòng rạn vỡ
Sao trời nhân lệ một thành muôn
Hoảng hốt ta ôm chặt bóng kiều
Đầy tay sương khói nặng bao nhiêu?
Phải chăng, kìa góc rừng Thi Hoạ
Vẳng tiếng chim xanh gọi Thiết Triều!
Hai mươi mốt tuổi nét xuân đằm
Nàng bỏ trời Âu tuyệt bóng tăm
Trải đúng hai mùa sen Tịnh Đế
Hồi loan, Công Chúa lại Mười Lăm?
Vào giấc cô miên, nàng hãy nghe:
Còn đây nửa vạt áo rồng che
Ta lên đường gấp cùng tia nắng
Cho kịp dâng nàng một xác ve
Nàng ôi, Nàng ôi, Ta mơ chăng?
Biển Đông biển Tây đều biển băng
Thôi rồi..! Ta không còn dám nghĩ
Tiếng ấy chim trời hay cá săng
Nhưng từ tăm cá bóng chim mờ
Kỷ niệm tung hoành nát gối mơ
Hoàng tử phiêu bồng thân nhẹ bấc
Vào săng càng thấy chỉ là Thơ
Một gửi xương da vách huyệt mềm
Thịt hao mòn, có Đất cho thêm
Cả thân, tâm, lại đầy phong độ
Ta sẽ hồi sinh đúng nửa đêm
Kiếp thứ mười hay mười một ư?
Cần chi! Rồng phượng áo chưa hư!
Sông Xanh núi Trắng rừng Thi Hoạ
Ta đến phen này kết thảo lư
Và ta nằm xuống thảm bình minh
Ngủ giấc sâu hơn biển Thái Bình
Công Chúa Mười Lăm về cạnh đó
Thay ngôi Chủ Khách… lại càng xinh
Nửa giấc nàng say hé cặp môi:
“Nhớ nhau hẳn cũng Thơ xong rồi!
Trước kia vẽ bóng, hình quên vẽ
Hơi tiếng đều quên… hoá lạc đôi
Tiếng trời hơi đất vẹn trường canh
Nay đã về, qua nhịp thở anh
Tóc bạch kim này, em chỉ đợi
Gieo hương cho mộng ngát duyên lành”
Ta uống từng âm hưởng dị kỳ
Nhưng lòng nghe gợn sóng hồ nghi:
“Em ơi! Rừng Cấm vui đoàn tụ
Sao chẳng hề vang khúc hoạ mi?”
Ngọc vỡ, san hô trút suối cười:
“Anh lầm! Đây sắc nắng hồng tươi
Quê hương anh chứ!… Và, em biết
Anh vẫn là anh kiếp thứ mười”
Lầm Sinh với Tử, Á thành Âu?…
Mới rõ tình Thơ ý Vẽ sâu
Hơn cả trái tim rừng Biểu tượng
Bên kia thế giới nghĩa gì đâu!
Công Chúa Mười Lăm chẳng bỏ ngôi
Ra đi là để tới đây thôi?
Cùng ta xum họp muôn ngàn kiếp
Chỗ hết Thời gian, đích phản hồi?
Ta ngập ngừng toan hỏi lại nàng
Ngây thơ đã tiếp suối cười vang
Hồi thanh có hoạ mi chen khúc
Và cả trời xưa cặp Phượng hoàng
Câu hỏi lưng chừng, lớp sóng Yêu
Xô nghiêng về tận bến Lam kiều
Nhạc đâu huyền thoại mưa vàng đổ?
Lệnh Miễn Chầu hay lệnh Thiết Triều?
Nàng uốn mình tơ dưới áo lông:
“Sông Xanh nào có khác sông Hồng!
Núi Đen núi Trắng nguyên là một
Kiếp thứ mười sao chưa cảm thông?”
Cảm Thông? Hai chữ nhớ thương đầy
Thi Hoạ duyên nào gốc ở đây?…
Ta vội mở trang Tình Sử cũ
Ôi, màu vẽ Tuyết, ý thơ Mây!
Tình Sử ai ghi? Chuyện xứ nào?
Mộng vàng đôi lứa sẽ ra sao?
Tay nâng trang sách, ta nhìn xuống
Nàng chợt như tia nắng rụng vào
Thể nhập rồi, trang sách trắng ngà
Ôi, nàng!… Sắc giấy hiện màu da
Đường cong tuyệt bút dần thu nhỏ
Nằm gọn trong muôn nét kỷ hà
Chẳng chút hồ nghi, ta xé đôi
Trang minh hoạ ấy để về ngôi…
Vì Thơ đến lúc nguyên hình Mộng
Uy lực Không gian đã hết rồi
Nét vẽ cuồng dâng tóc bạch kim
Giòng thơ đập loạn tiếng con tim
Nàng ôi, Tình một phương không đáy
Ta phải làm ra đáy để tìm…
Quên hết ngôn từ, chữ với câu
Vần phai theo bóng, nét theo màu
Dư âm Thi Hoạ riêng còn chút:
Công Chúa Mười Lăm, nàng ở đâu?
Nhịp cầu
Xa gửi anh hồn bạn thơ N.L.
Hạc vàng bay đi
Lầu hoang sầu vây quanh
Đường ngôi hoang khói sóng bơ phờ
Bướm trắng bay đi
Bầy lan run rẩy mộng
Gai rừng khuya xé rách cánh bơ vơ
Một con người mê đời như ai kia!
Tài hoa như ai xưa!
Nức tiếng “văn hay” một thời!
Uổng cho sông Sen chưa từng hé nhụy
Sông Dương chưa hề buông tơ
Chỉ u uất một giòng Thanh thủy
Nối vần mây còn lạc điệu hai bờ…
Người ôi! Người ôi!
Chí sĩ đền xong nợ nước
Văn hào đã thỏa ước mơ
Hai bóng đi vào hai lối Sử
Riêng Người một chuyến ra đi tìm Thơ
Phải chăng, bến quạnh sao mờ?
Lan xuông Bướm trắng
lầu trơ Hạc vàng!
Đôi ngả
Chia con sầu rỏ huyết
Trang huyền sử còn ghi
Lòng Mẹ xuống Nam Hải
Lòng Cha lên Ba Vì
Chia duyên sầu bất tuyệt
Lòng đôi lứa mê si
Trai Cửu Trùng hạ tứ
Thơ vọng tiếng Bằng Phi
Gái Lầu Tây cất chén
Ngọc đọng hồn Trương Chi
Mồ xanh cỏ như áo
Người khuất núi như mi
Tình sử dệt thương nhớ
Bao Quỳnh Như Chiêu Lỳ
Tình sử với huyền sử
Chia duyên cùng chia con
Sầu bất tuyệt làm giấy
Sầu rỏ huyết làm son
Viết giòng thiên cổ hận:
Chia nòi giống nước non
Ngòi bút này sắt đúc
Từng ngựa Gióng bon bon
Cây bút này bằng trúc
Phá giặc Ân chưa mòn
Hãy rạch nát thân phận
Bấy lâu rồi héo hon
Giống nòi chẳng một giận
Non nước dễ đâu còn
Nỗi lòng phương thảo
Con oanh đứt ruột làm chi
Lửa phai màu áo, mơ gì Vương Tôn?
Chừ nghe Xuân cũng vô hồn,
Ngàn hoa tiếng nổi như cồn, sá đâu?
Gió tanh rền rĩ Mê Lâu,
Cỏ Tương Tư kết ngôi Sầu quê Say.
Mênh mông xương trắng ai bày?
Khói bên kia… sóng bên này… hỏi ai?
Mấy mùa thơm Cúc thơm Mai,
Sao mùa thơm để thiệt loài Cỏ Thơm?
Bụi hồng tung… vó ngựa chờm…
Máu xanh chẳng múa đường gươm nữa rồi?
Bóng thiều vun vút như thoi,
Nát lòng tơ biếc, ai soi thấu tình?
Hôm nao cánh én đăng trình;
Nép bên cầu, vẫn tưởng mình còn non.
Thảo lư tiếc mộng không tròn;
Rồng bay, tấc cỏ riêng còn ngát chăng?
Bước du xuân chợt dùng dằng;
Bờ đê lửa đóm giăng giăng ngập trời.
Thuồng luồng đâu đó phun hơi,
Lâu đài la liệt cách vời Tiêu Tương.
Sương gió bồng bềnh
xa gửi bạn N.B.
Hỡi kẻ đúc gươm lò Chiến quốc
Từng đem mạng sống đổi gươm linh
Chỉ mong ánh thép xoay thời cuộc
Trở lại mùa Thiên-hạ-thái-bình
Nhớ Ngươi, ai nhớ bằng Ta nhớ!
Ta tráng sĩ từng như mây bay
Ghé bến Hoàng Sa, chân dẵm lửa
Tìm gươm… Và đã được trao tay
Tráng sĩ là ta; Ngươi ẩn sĩ
Hai vai Sống Chết nay chia bờ
Hỡi ơi, Bính nhớ Hoàng không nhỉ?
Hà Nội đêm nào diễn Kịch Thơ!
Ôm Bóng Giai Nhân từ mộng ảo
Vào không gian Kịch hiện chân thân
Ta cùng Ngươi đã chung hoài bão:
Gươm sáng ngời lên giữa điệu vần
Nhưng rồi… Sân khấu nằm tê liệt
Trời Cố Đô như bóng mất hình
Khói đắng men cay đêm tiễn biệt:
“Con chim bằng vỗ cánh dời sang Nam Minh”
Bài Ca Tận Túy rung thành lệ
Ngươi bảo: “Thơ Hoàng phải Bính ngâm!”
“Lỡ Bước Sang Ngang – Ta nhủ khẽ –
Gươm thiêng trong kịch chớ trao lầm!”
Ai hay Đời chẳng Thơ như Kịch
Năm ấy Ngươi đi là “một đi…”
Dẫu có trở về, nhưng tịch mịch
Hình phai bóng lợt đâu còn chi!
Còn ai diễn Bóng Giai Nhân nữa?
Ngươi với Cố Đô cùng mất nhau
Ta mất cả hai… Còn một nửa
Cuộc đời… Thôi cũng xế ngàn dâu!
Ném lên sàn gỗ? Ai cùng diễn?
Ném xuống, nào ai mở Quỷ Môn?
Ném tới, ba chiều xương máu nghẹn
Đành thôi, Bính ạ, Một càn khôn!
Hoàng đang ở cõi “Vô hà hữu”
Bính lại, đừng lo đường lối mê!
Chẳng thấy ngả nghiêng hoa thạch lựu?
Hoàng ngâm thơ Bính… Có hồn ghê!
“Chừ đây bên nớ bên tê
Sương thu xuống, gió thu về, bồng bênh”
Cầm tay, vẳng tiếng gươm ngày nọ
Bến nước mười hai khóc nổi nênh!
Trở về
Đã phá đứt tung
Mọi dây trói, mọi rào đơn lưới kép.
Đã xóa bỏ những vòng đai chật hẹp
Những phù hoa lồng kính đóng khung.
Và đã trở về.
Đâu cần mở con-đường-không-biết-khép;
Cảnh nơi đây còn nguyên vẻ đẹp
Của hôm nào ra đi.
Núi ngày cũ nghiêng đầu khoe tóc mượt,
Rừng thông vẫn tiếng reo xanh.
Lưng yểu điệu hòa theo mầu cỏ mướt,
Vòng chân đứng vững như thành.
Chỉ có tóc này pha sương,
Hai vai này vơi mất nhiều xuân
để mang đầy cát bụi,
Những bước đi này thêm nặng đau thương
Kể từ xuống núi.
Giòng suối cũ chẳng cao lên,
cũng chẳng hao gầy,
Vẫn là gương mặt thơ ngây.
Giọng nói cười trong vắt
Giữa vùng hoa dại kết nôi.
Chỉ có ngàn tia hy vọng tắt
Không hẹn phản hồi;
Chỉ có niềm tin nín bặt
Trong đôi hố mắt này thôi.
Người yêu cũ nằm đây, trang sách mở,
Thân đọng ngọc lung linh
Hồn Chữ hương dìu hơi thở
Gợn khắp châu thân từng vân ngọc đa tình.
Chỉ có thịt xương này khô héo
Tâm tư này xiêu vẹo
Qua nhiều cơn sốt mê tơi
Của những mưu sinh, ứng thế, tranh thời.
Chử Đồng Tử với Tiên Dung Công chúa
Từng khói mây vút cánh Bồng Châu.
Khói như tơ bạc mây như lụa
Nhưng Bồng Châu? Bồng Châu?
Ai biết nơi đâu?
Và đâu chỉ một phương Thần Thoại ấy,
Một lứa đôi tài tử đất Phong Khê!
Gẫm lại ngàn xưa ai chẳng vậy;
Chẳng ai không “trở về”.
“Trở về”… “Trở về”… ôi điệp khúc
Mỗi giây phút như kêu đòi như thúc giục!
“Về đi thôi!”…, Đào lệnh có vườn hoang
Tư Mã Tương Như có bóng chim hoàng
Lưu Nguyễn có hoa đào nước suối.
Ai giác ngộ có bè Nam Hải
Tham sân si cũng có vực Trầm Luân.
“Trở về”, ai chẳng một lần!
Còn may cho ta
Chốn cũ không già.
Cuộc trở về êm như bản nhạc
Đường về tạo lấy bằng Thơ
Vì ta vẫn là Ta, dầu nghiêng lệch bơ phờ
Núi vẫn nhận ra nhau,
suối không hề oán trách.
Và Người xưa… Ôi Người Yêu trinh bạch,
Dám đâu ta gọi thức bao giờ!
Lòng ngõ dâng sầu
Phương Nam có người đẹp
Dùng văn thay phấn son
Mộng gầy trang sách ép
Ngoài song hoa nở ngon
Gió bão khơi ngòi thép
Đá ba sinh chưa mòn
Chỉ e lòng ngõ hẹp
Sầu thu lở núi non
Nhớ mai
Khói tỏa thơ ngâm dưới gốc này
Hôm nào… để nhớ tới hôm nay,
Tiếng tiêu thổn thức bên thành nổi
Từng trận mưa hoa trắng vũng lầy.
Rã cánh em hồng theo chị bạch
Hồn thơm biết có gửi đâu đây?
Phút vui những tiếc sao mà ngắn
Nâng chén thanh mai giọt lệ đầy.
Hoa lý hoa đào không giải ngữ
Một mình tỉnh giữa bốn phương say.
Tương tư, mượn giấc không thành giấc
Bao đĩa dầu vơi ngọn nến gầy.
Cành Bắc cành Nam đều giá buốt
Thâu đêm ngồi lẻ ấp da cây.
Nhìn trăng soi chếch vào song vắng
Hận kiếp tu xưa đã chẳng dầy!
Ngấn lệ trăng soi
Móng hồng còn vết trên cao
Hồng sơn còn ngóng thi hào Nguyễn Du.
Sắc hương nằm lạnh thiên thu:
Bạc phau gò tuyết, sa mù nửa vai.
Sớm chiều mây trắng đeo đai,
Giá băng nín thở cho dài nhớ thương.
Tiếng Thơ từ buổi lên đường,
Gươm đàn chắp cánh Đoạn trường ra khơi.
Mang mang rốn biển chân trời,
Quặn đau ruột đất rã rời vòng sao.
Mở hai thế kỷ nghe vào:
Xương khô lỗi nhịp máu đào, còn căm! –
Nơi đâu trường dạ tối tăm
Để nơi đâu có trăng rằm đầy trang?
Năm mươi năm lẻ mơ màng,
Đời ai rút ngắn cho Nàng Thơ xinh?
Hồng bay để dấu bất bình,
Tuyết non cao thoắt hiển linh ý thần.
Nỗi đau ném chữ gieo vần
Chín mươi chín ngọn xa gần còn in.
Hồn Xưa không ngẩng lên nhìn,
Mực đen giấy trắng muôn nghìn cũng hư.
Lưng rùa trao nét Lạc Thư,
Bắc phương đã sáng lên từ mặt sông.
Trời Nam chẳng tuyệt giống hồng,
Đầu non còn gửi lời thông điệp về!
Bảng vàng hoa tím
xa tặng KIỀU THU
Hà Nội xưa đưa nàng đi thi
Có chàng thư sinh tình rất si
Cài hoa lên tóc còn buông xõa
Chàng nhủ người yêu: Chớ sợ gì!
Hoa này, anh đã mất nhiều công
Chọn ở Hàng Bài, em biết không?
Đề khó đến đâu hoa cũng thuộc
Rắc hoa đầy giấy góp là xong!…
Nàng vui như Tết, vào sân trường
Hi vọng bay theo lòng ngát hương
Chàng đợi nàng trong rừng Bách thảo
Như trong huyền thoại của Đông phương
Đưa nhau ríu rít đón nhau về
Ngày lại ngày… cho tình càng mê
Bài Sử Địa hay bài Vạn Vật
Cũng đều tươi nét hoa “Pensée”!
Đường lên Hàng Quạt gió say reo
Cửa Bắc giờ đây bảng sắp treo
Dựa sát vai chàng, hơi thở gấp
Ôi, nàng cảm động biết bao nhiêu!
Người đi xem bảng mới lơ thơ
Nắng sớm đùa trên cỏ nhởn nhơ
Chàng dỗ dành: Em đừng nghĩ quẩn
Yêu nhau, thi có trượt bao giờ!
Kia rồi: Hương phấn đã truyền tin!
Đôi lứa mừng, quên cả giữ gìn
Tay khoác tay nhau làm cánh bướm
Song song, lìa sóng cỏ, bay lên
Chợt nghe thiên hạ bảo thầm nhau:
Người đẹp Hàng Gai lại đỗ đầu!
Chàng ghé bên tai nàng, giễu cợt:
Áo hồng như thế áo cô dâu!
Nàng xem hoa nở đúng tên nàng
Rồi mỉm cười: Thôi, kệ bảng vàng!
Anh hãy cắt bài thơ áo tím
Cho em mặc nhé! Rất thời trang!
Giây phút ngỡ ngàng
Làm sao tôi nhận ra cô bé ngồi kia!
Chiếc én đình Vương Tạ
Giữa Sài Gòn Sáu Tư
nắng phai mùa đố lá
Hoàng hôn dài lê thê…
Lời giới thiệu dài hơn cả hoàng hôn:
“người mới xa về…”
Tôi sững sờ, gượng cười…
Hết thẩy đều xa lạ
Buổi họp nào đây? Có phải đường lên
Sacré-Coeur hoa vàng tượng đá?
Người về!…
tôi nhắc lại tên
Dư âm đầy mạch máu vang rền!
Thế ra đây là Huyền… tôi quen
Trong lòng một chuyến đi
Mở mặt đô kỳ ánh sáng Paris?
Trong một chuyến đi
Mà sông Seine cùng tháp Eiffel
Mỗi xế trăng thu còn nhắc nhở thầm thì
Sao có chuyện hoang đường thế được?
Nước da thuỳ mị kia…
Gò má bình yên này…
Và mái tóc… Ôi tội tình cho mây!
Là Huyền ư? Huyền của “Lang thang”?
… Lạ nhỉ!
Càng phi lý nữa là…
Nhất là…
Chiếc áo lụa phấn hồng ngoan, hiền, thướt tha
Hỡi áo đẹp “cô dâu bé bỏng”
Ngươi thẹn thùng chăng nếp hải hà?
Ôi, một tảng màu từ đâu lạc lõng
Về bức tranh đằm duyên Bích Câu?
Bức tranh tôi đã thuộc lòng
Đến từng sắc điệu
Từng gợn bất ngờ trên nét thẳng đường cong!
Hay là… một trong muôn nghìn vũ trụ song song
Với trần gian này
từ lâu sương mờ khói loãng
Đột nhiên vừa đây
cắt lầm vào một khoảng?
Trời ơi bức hoạ sơ nguyên!
Đâu chiều-ánh-sáng đêm hoa nguyền?
Tôi bước lên…
như người máy…
bước lên…
Đồng thời giọng “cô bé ngồi kia”
– người mới xa về –
cũng trầm trầm rung lên
Tôi nín thở
chiếc đồng hồ đeo tay cuồng loạn đập
Kìa: những con đường, dọc, ngang
Từ môi nàng vút ra, thẳng tắp!
Chúng giao nhau, kề nhau,
lìa xa, rồi lại gặp…
Đây rồi, Huyền của “Lang thang”!
Ngược xuôi bờ đá chân cầu Neuf
Trăng vỡ đầu sông… hẳn nhớ Hoàng?
Đâu đó nước dâng…
tôi giật mình, hụt bước
Vũ trụ quanh tôi bỗng thu hồi kích thước
Cả ba chiều tái lập
à, đây phòng họp…
người quen!…
Nửa chớp mắt ngờ cung đàn lỗi nhịp
Bài thơ sai niêm
Nhưng ai đã giùm tôi xoá phăng?
Vết thương mở ra
– may thay –
vừa đóng kịp
Tôi cười…
không gượng nữa!
… tiến lên
Bàn tay siết chặt vọng tên: Huyền!
Trên đây là những bài thơ mà nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong tập Cành mai trắng mộng. Đây là một tập thơ rất hay và độc đáo mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Qua đó ta có thể thấy được những cảm xúc vô cùng tinh tế của nhà thơ. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ này bạn nhé!